Logo Website

BA GẠC BỐN LÁ

06/04/2020
Viên cao Ba gạc Raucaxin bào chế từ bột rễ Rauvolfia tetraphylla chứa 2 mg alkaloid toàn phần dùng điều trị bệnh tăng huyết áp đặc biệt đối với thể vừa và nhẹ. Thuốc có tác dụng êm dịu, xuất hiện từ sau một tuần lễ, thuốc dung nạp tốt, không gây buồn nôn, mệt mỏi. Bệnh nhân sau khi dùng thuốc, ngoài huyết áp hạ, cảm thấy đỡ nhức đầu, chóng mặt và dễ ngủ hơn trước.

BA GẠC BỐN LÁ

Ba gạc bốn lá Rauvolfia tetraphylla

Ba gạc bốn lá -  Rauvolfia tetraphylla L.; Ảnh: Vengolis và cicy.mx Flora Digital: Península de Yucatán

Tên khoa học: Rauvolfia tetraphylla L.; Họ Trúc đào (Apocynaceae).

Tên đồng nghĩa: Rauvolfia canescens L.Rauvolfia canescens var. glabra Müll.Arg.Rauvolfia canescens var.intermedia Markgr.Rauvolfia canescens var. tomentosa Müll.Arg.Rauvolfia heterophylla Willd. ex Roem. & Schult.Rauvolfia heterophylla var. puberula A.GrayRauvolfia hirsuta Jacq.Rauvolfia hirsuta var. glabra (Müll.Arg.) Woodson; Rauvolfia latifolia var. minor Müll.Arg.Rauvolfia nitida Sessé & Moc.Rauvolfia odontophora Van Heurck & Müll.Arg.Rauvolfia subpubescens L.; Rauvolfia tomentosa Jacq.

Tên khác: Ba gạc Cu Ba.

Mô tả:

Cây nhỏ cao 40-80cm, có thể đến 2m, phân cành nhiều. Lá mọc vòng 4, hai lá nhỏ và hai lá to; lá to có phiến dài 5-8cm, rộng 2-3cm, lá nhỏ dài 2,5-5cm, rộng 1,5-2cm. Hoa màu trắng lục hoặc trắng ngà, mọc ở nách lá hoặc ở ngọn cành, tràng hoa hình ống ngắn, phình ra ở hai đầu. Quả đại xếp từng đôi khi chín màu đỏ sau chuyển dần sang tím đen. Mùa hoa: tháng 6 - 8; mùa quả: tháng 9-11.

Phân bố, sinh thái:

Rauvolfia L. là một chi tương đối lớn, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, số ít ở cận nhiệt đới. Tổng số loài đã biết có thể đến 100, trong đó ở châu Phi và Madagascar có khoảng 10 loài; 20 loài ở châu Mỹ và số còn lại tập trung ở châu Á, châu úc và một số đảo ở Thái Bình Dương.

Ở Việt Nam, có khoảng 13-14 loài thuộc chi này. Một số loài được coi là đặc hữu hẹp Việt Nam như Rauvolfia chaudocensis Pierre ex Pit; Rauvolfia nhatrangensis Ly; Rauvolfia vietnarnensis Ly, 2 loài khác là đặc hữu Đông Dương Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pit; Rauvolfia indochinensis M.Pichon. Ngoài ra, chỉ có 3 loài là cây nhập nội: Rauvolfiatetraphylla L.; Rauvolfia cafra và Rauvolfia vomitoria Afzel ex Spreng.

Ba gạc bốn lá có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ. Cây mọc lự nhiên trên các đồi cây bụi thấp, ở các bãi hoang ven đường đi. Cây còn được trồng ở nhiều nơi thuộc Ấn Độ và Trung Quốc. Ba gạc bốn lá được nhập trồng vào Việt Nam vào khoảng 1970. Hạt giống của cây được lấy từ CuBa, trồng thử ở Liên Xô, sau đó đưa sang Việt Nam. Cây trồng ở nước ta tỏ ra thích nghi ngay với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, có thể trổng được ở khắp nơi, trừ vùng núi cao lạnh như Sa Pa (1500m).

Ba gạc bốn lá là cây ưa sáng, ưa đất ẩm nhưng có thể chịu được hạn. Cây trồng từ hạt, ra hoa quả ngay năm đầu tiên. Các năm sau, lượng hoa quả ngày càng nhiều. Cây trồng được chăm sóc tốt, sau 3 - 4 năm, có thể cao lới 2m.

Ba gạc bốn là đã đựơc đưa vào sản xuất lấy nguyên liệu trong những năm 80 và gần đây không trồng nữa nên có nguy cơ bị mất giống. Cần chú ý bảo tồn.

Cách trồng:

Ba gạc bốn lá là cây nhập nội từ 1974. Cây có khả năng thích nghi rộng, không kén đất, chịu hạn tốt, lì sâu bệnh, sống bình thường ở nhiệt độ từ 25 đến 30°C.

Ba gạc bốn lá đã được nghiên cứu trồng tại trại Nghiên cứu cây thuốc Văn Điển (nav là Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, thuộc Viện Dược liệu) từ năm 1988. Sau đó, cây đã được đưa ra sản xuất thử tại Vĩnh Phúc, Hải Dương và Hà Tây.

Tuy có khả năng nhân giống bằng cành, nhưng đến nay ba gạc bốn lá mới chỉ được nghiên cứu nhân giống bằng hạt. Năng suất hạt đạt khá cao, 1 ha cây 10-12 tháng tuổi có thể cho 200 - 300kg, cây 12-24 tháng tuổi cho 300 - 500 kg hạt.

Hạt được gieo trong vườn ươm vào tháng 2 - 3, đến tháng 5 thì đánh cây con đi trồng. Đất vườn ươm cần được cày bừa kỹ, đập nhỏ và lên thành luống để tiện chăm sóc. Có thể dùng dung dịch acid sulfuric 0,5% để ngâm hạt trong 6 - 8 giờ, sau đó rửa sạch acid, để ráo rồi đem gieo vãi hay gieo theo rạch, đảm bảo khoảng cách giữa các hạt từ 5 đến 7 cm. Hạt sẽ nảy mầm sau khoảng 15 ngày nếu giữ đủ ẩm. Trong thời gian ở vườn ươm, cây cần được giữ ẩm thường xuyên và sạch cỏ dại.

Đất để sản xuất nếu ở vùng đồi có thể lên thành luống theo đường đồng mức hoặc thành từng lô, nếu ở đồng bằng cần lên thành luống. Sau khi cày bừa kỹ, vơ sạch cỏ, để ải, cần bón lót chừng 15 tấn phân chuồng, 150 - 200kg phân lân và 75-100kg kali cho mỗi hecta. Phân được trộn đều, rải lên mặt ruộng và phủ bằng đất hót từ rãnh luống. Luống thường làm cao 25 - 30 cm, rộng 1 - 1,2m để trồng 4 - 5 hàng với khoảng cách 30x30 cm. Hàng năm vào tháng 3 - 4 bón thúc thêm 100 - 150 kg urê/ha. Ngoài ra, có thể cần tưới thêm nước giải, nước phân chuồng.

Rễ ba gạc bốn lá thu vào tháng 11-12 khi cây đạt 18-24 tháng tuổi là có hiệu quả kinh tế cao nhất. Khi thu hoạch cố gắng đào sâu, tận thu hết rễ nhỏ vì không phải bỏ lõi. Các rễ to cần phải bỏ lõi, tốt nhất là đào đến đâu cạo hoặc bóc lấy vỏ rỗ đến đó, không để khô, khó làm. Năng suất trung bình đạt 200 - 300 kg vỏ rễ khô với hàm lượng alkaloid đạt từ 2,48 đến 4%.

Bộ phận dùng: Rễ (Radix Rauvolfiae Tetraphyllae).

Thành phần hóa học:

Rễ ba gạc bốn lá chứa 0,05% reserpin và có hàm lượng rescinamin, deserpidin cao. Ở Ấn Độ, loài ba gạc này được dùng thay thế Rauvolfia serpentina tuy hàm lượng reserpin có thấp hơn.

Alkaloid toàn phần thay đổi tuỳ giống trồng từ 1,23-2,78% (ở rễ), 0,43-0,83% (ở thân) và 1,35-2,24% (ở lá). Rễ chứa 0,05% reserpin và có hàm lượng rescinnamin, deserpidin cao.

Tác dụng dược lý

Dạng chiết thô từ ba gạc bốn lá có tác dụng hạ huvết áp và tiêu hủy adrenalin trên chó thí nghiệm. Theo các tác giả Liên Xô trước đây, các dạng chiết từ ba gạc bốn lá trên mèo gây mê có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài. Dạng chiết từ vỏ thân có tác dụng hạ huyết áp mạnh hơn dạng chiết từ rễ. Ngoài ra các dạng chiết trên còn có tác dụng tiêu hủy adrenalin, ức chế thần kinh trung ương.

Ở Việt Nam, dạng cao chiết từ vỏ rễ ba gạc bốn lá di thực, trên chuột cống trắng và mèo thực nghiệm có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài, ngoài ra, còn có tác dụng an thần, thu nhỏ đồng tử, làm giãn mi mắt thứ ba của mèo.

Dạng cao chiết thô từ vỏ rễ R. tetraphylla di thực vào Việt Nam có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài, ngoài ra còn có tác dụng an thần, thu nhỏ đồng tử.

Tính vị: Vỏ rễ có vị đắng tính hàn.

Công dụng:

Viên cao Ba gạc Raucaxin bào chế từ bột rễ Rauvolfia tetraphylla chứa 2 mg alkaloid toàn phần dùng điều trị bệnh tăng huyết áp đặc biệt đối với thể vừa và nhẹ. Thuốc có tác dụng êm dịu, xuất hiện từ sau một tuần lễ, thuốc dung nạp tốt, không gây buồn nôn, mệt mỏi. Bệnh nhân sau khi dùng thuốc, ngoài huyết áp hạ, cảm thấy đỡ nhức đầu, chóng mặt và dễ ngủ hơn trước. Loài này cũng được sử dụng nhiều ở Ấn Độ, ở Malaysia rễ được dùng chữa vết rắn cắn và dùng làm thuốc chữa sốt rét, ngã nước.

Liều dùng: Ngày uống 2 lần, mối lần 1 - 2 viên.

Tham khảo:

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu)

Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)

Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi)