Logo Website

BINH LANG

15/04/2020
Binh lang (hạt cau) là vị thuốc quý, có tác dụng hành thủy, hạ khí, sát trùng và phá tích. Dược liệu này thường được sử dụng để trị các chứng bệnh về đường tiêu hóa như ăn không tiêu, bụng đầy trướng, táo bón, tiêu chảy, nhiễm giun sán.

BINH LANG (槟榔)

Semen Arecae

Binh lang - cây cau Areca catechu

Cây Cau: Areca catechu L.; Ảnh alibaba.com and seeds-gallery.shop

Tên khác: Hạt cau, Đại phúc tử, Tân lang.

Tên khoa học: Areca catechu L., họ Cau (Arecaceae)

Tên đồng nghĩaAreca faufel Gaertner; Areca himalayana Griffith ex H. Wendland; Areca hortensis Loureiro; Arecanigra Giseke ex H. Wendland; Sublimia areca Commerson ex Martius.

Mô tả:

Cây: Cây cau là một cây sống lâu năm, thân mọc thẳng, cao độ 15 – 20m, đường kính 10 – 15cm, thân tròn, không chia cành, không có lá, có nhiều đốt do vết lá cũ rụng, chỉ ở ngọn mới có một chùm lá to, rộng, xẻ lông chim. Lá có bẹ to. Hoa tự mọc thành buồng, ngoài có mo bao bọc, hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ  màu trắng ngà, thơm mát. Quả hạch, hình trứng, to gần bằng quả trứng gà, lúc đầu xanh, vỏ bóng nhẵn, khi già biến thành màu vàng đỏ. Quả bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuốn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn, giữa đáy hơi lõm, màu nâu nhạt, vị chát.

Dược liệu: Khối cứng, hình trứng hoặc hình cầu dẹt, cao khoảng 1,5 – 3,5 cm; đường kính khoảng 1,5 – 3,5 cm. Đáy phẳng, ở giữa lõm, đôi khi có một cụm xơ (cuống noãn). Mặt ngoài màu nâu vàng nhạt hoặc màu nâu đỏ nhạt với những nếp nhăn hình mạng lưới. Cắt ngang thấy vỏ hạt ăn sâu vào nội nhũ tạo thành những nếp màu nâu xen kẽ với màu trắng nhạt. Phôi nhỏ nằm ở đáy hạt.

Cây cau được trồng ở khắp nơi trong nước ta, nhất là vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Trồng bằng quả, sau 5 – 6 năm mới thu hoạch, đó là cau nhà, còn gọi là Gia tân lang, có loại cau tứ thời (Cau bốn mùa), cây thấp đã có quả, ra quả quanh năm.

Cau rừng (Areca oleracea Linn cùng họ) còn gọi là Sơn tân lang, cây bé, hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Vùng Nghệ An, Thanh Hóa có nhiều. Hiện nay ta thu mua cả hai loại cau nhà và cau rừng.

Bộ phận dùng: Vị thuốc là hạt già phơi hay sấy khô của cây Cau (Areca catechu L.), họ Cau (Arecaceae). 

Phân bố: Cây được trồng khắp các miền nước ta, trong đó tập trung nhiều nhất ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Hải Phòng.

Thu hái, sơ chế: Mùa thu hoạch khoảng tháng 9 – 12 (không kể loại cau tứ thời) lấy quả thật già, róc bỏ vỏ ngoài và vỏ già, lấy nguyên hạt ở trong đem phơi sấy thật khô.

Bào chế:

Theo Trung Y: Ngâm nước ủ mềm, cạo bỏ dưới đáy, thái nhỏ. Chớ chạm tới lửa sợ kém sức, nếu dùng chín thì thà không dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).

Theo kinh nghiệm Việt Nam:

- Ngâm nước 2 - 3 ngày, ngày thay nước một lần trong chậu sành hay men, vì có chất chát, kỵ sắt, thái mỏng, phơi khô, không được sao.

- Thuốc trị sán: do xét nghiệm thấy nước sắc hạt Cau có tác dụng làm tê liệt sán nhưng chỉ mạnh đối với đầu con sán (trái lại hạt Bí rợ có tác dụng chủ yếu làm tê khúc đuôi) cho nên có bài thuốc sau đây: Sáng lúc bụng đói ăn 40 - 100g hạt bí rợ (bỏ vỏ). Hai giờ sau uống nước sắc hạt Cau (trẻ em trên 10 tuổi 30g,  phụ nữ  50 - 60g, người lớn 80g, cho liều hạt cau trên đây đun với 300 ml nước. Đun cho cạn còn 250 ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5% vào cho đến khi kết tủa (để loại chất chát). Gạn lọc, đun cạn cho còn 150 - 200ml). Nửa giờ sau khi uống hạt cau, uống một liều thuốc tẩy (Magie sunfat 30g). Nằm nghỉ, đợi thật buồn đi ngoài, ỉa vào một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào.

Bảo quảnDễ bị mốc và mọt nên cần bảo quản ở nơi kín và thoáng mát. Thỉnh thoảng nên quan sát biểu hiện của dược liệu, nếu thấy mọt thì nên sấy diêm sinh để tránh hư hại.

Thành phần hoá học : Trong hạt cau có tanin, tỷ lệ trong hạt non độ 70% nhưng khi chín chỉ còn 15 – 20%. Hoạt chất chính là 4 alcaloid (tỉ lệ độ 0,4%) chủ yếu là arecolin C­­8H13NO2, arecaidin C17H11NO2, guvacin C­­6H9NO2 guvacolin C17H11NO2 Ngoài ra còn có mỡ béo (14%) các đường (2%), muối vô cơ và một sắc tố đỏ.

Tác dụng dược lý:

- Tác dụng kháng khuẩn: Hạt cau tươi và khô đều có tác dụng ức chế nấm và virus gây bệnh ngoài da.

- Tác dụng đối với hệ thần kinh: Vị thuốc binh lăng có tác dụng kích thích cholinergic ở hệ thần kinh trung ương nhằm tăng nhu động ruột và tăng trương lực cơ trơn của đại trường, dạ dày. Ngoài ra binh lăng còn có tác dụng tăng cơ trơn tử cung và túi mật, tăng tiết mồ hôi, nước bọt, hạ huyết áp và làm chậm nhịp tim.

- Tác dụng xổ sán: Nước sắc từ hạt cau có tác dụng làm tê liệt thần kinh của sán lợn và sán bò. Ngoài ra dược liệu còn có tác dụng xổ lãi kim.

Tính vị: Vị chát, hơi đắng, cay, tính ôn, không có độc.

Quy kinh: Đại trường và Vị.

Công năng:  Hạ khí, hành thuỷ, tiêu hoá, sát trùng (phá tích).

Công dụng: Chữa sán, giúp tiêu hoá, chữa viêm ruột, lỵ, ngực bụng chướng đau, thuỷ thũng, sốt rét, cước khí sưng đau.

Cách dùng, liều lượng: Ngày 4 - 6g, dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán, để trị sán thường phối hợp với hạt Bí ngô, để trị sốt rét phối hợp với Thường sơn.

Bài thuốc:

1. Chữa sán (taeniasis): Binh lang (cắt lát), Nam qua tử mỗi thứ 30g. Nam qua tử tán nhỏ. Binh lang sắc nước trộn uống. Có thể ăn hết hạt bí ngô rồi uống nước sắc Binh lang.

Hoặc Binh lang 60g, Sơn tra tươi 1000g (trẻ em giảm nửa, nếu dùng loại khô: người lớn 250g, trẻ em 120g). Rửa Sơn tra bỏ nhân, 3 giờ chiều bắt đầu ăn đến 10giờ tối hết, tối nhịn ăn. Sáng hôm sau sắc Binh lang còn 1 chén trà nhỏ, uống hết 1 lần nằm nghỉ. Lúc buồn đi tiêu nín 15 phút rồi đi ngâm đít vào chậu nước nóng cho ra hết sán.

2. Chữa giun kim (oxyuriasis): Binh lang 15g, Thạch lựu bì, Nam qua tử đều 10g sắc uống lúc đói trước khi đi ngủ.

3. Chữa sán lá (fasciolopsiasis): Binh lang 15g, Ô mai 10g, Cam thảo 5g, sắc uống vào lúc sáng sớm bụng đói.

4. Chữa táo bón bụng đầy, do thực tích khí trệ: Mộc hương, Binh lang hoàn (Đan khê tâm pháp): Mộc hương, Binh lang, Thanh bì, Trần bì, Nga truật, Hoàng liên đều 30g, Hoàng bá, Đại hoàng đều 100g, Hương phụ sao, Khiên ngưu đều 120g, tán bột mịn làm hoàn, mỗi lần 6 – 10g, ngày 2 – 3 lần với nước sôi ấm.

5. Chữa sốt rét: Triệt ngược thất bảo ẩm “Dương thị gia tăng phương”: Thường sơn 3g, Thanh bì, Trần bì, Chích thảo, Binh lang, Thảo quả nhân đều 2g, sắc nước uống, có thể gia thêm tí rượu, uống trước khi lên cơn 2 giờ.

6. Chữa thực tích khí trệ gây bụng đầy trướng, táo bón, ăn uống khó tiêu: Khiên ngưu và hương phụ (sao) mỗi vị 120g, đại hoàng và hoàng bá mỗi vị 100g, nga truật, binh lang, mộc hương, hoàng liên, trần bì, thanh bì mỗi vị 30g. Đem các vị tán bột mịn, mỗi lần dùng 6 – 10g uống với nước ấm. Ngày dùng 2 – 3 lần cho đến khi triệu chứng thuyên giảm.

7. Chữa chứng ợ hơi và ợ chua: Chuẩn bị: Trần bì 6g và hạt cau 12g. Đem các nguyên liệu tán thành bột, sau đó chế với mật làm thành viên. Khi đói, dùng ăn một lượng vừa phải.

8. Chữa đầy hơi, chướng bụng. Hạt cau 8g, táo mèo 16g. Sắc uống liên tục trong 7 – 9 ngày.

Kiêng ky: Người khí hư hạ hãm không tích trệ, trẻ em và phụ nữ có thai không được dùng Binh lang. Kỵ lửa.

Ghi chú: Vỏ quả Cau già là vị thuốc có tên Đại phúc bì làm thuốc lợi tiểu, chữa phù thũng toàn thân, nhất là bụng.

Tham khảo:

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu)

Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)

Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi)