Logo Website

KEO GIẬU-Chữa giun đũa

28/09/2020
Cây Keo giậu có Tên khoa học: Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit; họ Đậu (Fabaceae). Công dụng: Để trị giun, thường dùng hạt tươi ăn hoặc dùng hạt khô rang lên cho nở, tán bột uống, hoặc thêm đường làm thành bánh

KEO GIẬU

Semen Leucaenae leucocephalae

Keo giậu Leucaena leucocephala

Kẹo giậu: Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit; Ảnh indiamart.com and plantsoftheworldonline.org

Tên khác: 

Táo nhơn, Bình linh, Bọ chét, Keo giun, Bồ kết dại, Phắc căn thin (Tày), Nàng dung điẳng (Dao).

Tên khoa học: 

Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit; họ Đậu (Fabaceae). 

Tên đồng nghĩa

Acacia frondosa Willd.; Acacia glauca (L.) Willd.; Acacia leucocephala (Lam.) Link; Leucaena glabra Benth.; Leucaena glauca Benth.; Leucaena leucocephala subsp. leucocephalaMimosa glaucasensu L.;  Mimosa leucocephala Lam.

Mô tả: 

Cây nhỏ cao tới 5m, không có gai, vỏ thân màu nâu nhạt. Lá kép lông chim hai lần; cuống chung dài 12-20mm; lá lông chim 4-8 đôi; lá chét 12-18 đôi gần như không cuống và hình lưỡi liềm, dài 10-15mm, rộng 3-4mm. Cụm hoa hình đầu ở nách lá, gồm nhiều hoa màu trắng. Quả đậu dẹt màu nâu, dài 13-14cm, rộng 15mm, đầu quả có mỏ nhọn; hạt 15-20, dẹt, lúc non màu lục; khi già màu nâu nhạt, cứng, nhẵn. Mùa hoa tháng 4-6; quả tháng 7-9.

Phân bố: 

Cây có nguồn gốc ở vùng Trung Mỹ sau lan rộng ra khắp các vùng nhiệt đới châu Mỹ, châu Á, Đông và Tây Phi. Sự khác biệt về địa lý, nơi mọc và tác động của quá trình trồng trọt đã tạo nên sự đa dạng, phong phú về những quần thụ dưới loài (hơn 100 giống), (Vu Van Dung et al., 1996, Vietn. Fores trees, 443). Ở Việt Nam, keo giậu thường mọc tự nhiên ở các vùng đồi hay được trồng ở vùng đồng bằng làm bờ rào. Ở vùng Tây Nguyên và Đông Tây Nguyên, có loại keo giậu là dạng cây gỗ cao gần 10m, được trồng làm cây tạo bóng cho cà phê, nhiều nơi làm hàng rào giậu, làm cây che bóng và cải tạo đất, lấy lá làm thức ăn cho gia súc và làm phân xanh.

Keo giậu là cây ưa sáng, sống được trên nhiều loại đất, kể cả đất khô cằn. Cây có bộ rễ phát triển, chịu được khô hạn, mọc ở các tỉnh phía bắc có hiện tượng rụng lá về mùa đông. Ra hoa quả nhiều, tái sinh tự nhiên từ hạt và cây chồi gốc sau khi bị chặt.

Trồng trọt:

Keo giậu thường được trồng trên đất tận dụng ven đường, bờ sông, bờ ao, quanh vườn.

Cây được nhân giống bằng hạt. Hạt gieo vào tháng 2-3, cây con trồng vào tháng 8 -9 hoặc mùa xuân

Thu hái, sơ chế: 

Thu hoạch quả chín vào mùa hè – thu, rồi đập lấy hạt, đem phơi hay sấy khô. Có thể dùng hạt tươi. Lá và đọt ngon của cây được nhân dân hái về để nấu canh hoặc luộc ăn như một loại rau thông thường.

Bảo quản

Bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng mát.

Bộ phận dùng: 

Hạt (Semen Leucaenae leucocephalae), còn dùng cả rễ

Thành phần hoá học: 

Lá chứa tanin, quercitrin và là nguyên liệu cho protein và caroten. Còn có alcaloid độc là leucenin hoặc leucenol tương tự chất mimosin trong các loài thuộc chi Mimosa. Hạt chứa dầu béo, trong đó có các acid béo (palmitic, stearic, behenic, lignoceric, oleic và linoleic); hạt còn chứa chất nhầy gồm mannan, galactan và xylan.

Keo giậu có thể hấp thụ Se từ đất, rồi tích luỹ ở hạt. Người ta quan sát thấy các hiện tượng ngộ độc ở các động vật dùng keo giậu làm thức ăn.

Vỏ chứa nhiều tanin (16,3%).

Tác dụng dược lý:

Thời Pháp thuộc, có dùng 50g hạt keo dậu/ ngày cho trẻ nhỏ ăn để trị giun đũa và không nhận thấy có hiện tượng ngộ độc.

Bệnh viện Ninh Giang sử dụng hạt keo dậu rang cho nở rồi tán bột và dùng để trị giun vào năm 1961 với liều dùng: Trẻ từ 3 – 15 tuổi dùng 5g/ ngày, sử dụng liên tục trong vòng 3 ngày nhận thấy có cải thiện rõ rệt.

Khi dùng hạt bình linh trị giun nhận thấy có giun đi ra nhưng thực nghiệm cho giun vào nước sắc từ hạt bình linh thì không nhận thấy có tác dụng.

Chất độc mimosine trong dược liệu có khả năng ức chế quá trình sản sinh của tế bào ung thư phổi, ung thư gan, đồng thời tăng độ nhạy cảm của tế bào ác tính với các phương pháp điều trị ung thư.

Một số nghiên cứu cho thấy, chiết xuất từ cây bình linh có tiềm năng ức chế ung thư niêm mạc miệng và hiện tượng di căn của tế bào ác tính.

Tác dụng ngừa thai. Theo tài liệu nước ngoài, súc vật được nuôi bằng thức ăn có trộn bột hạt keo giậu sẽ ngừng sinh đẻ trong một thời gian, ở Việt Nam, tác dụng ngừa thai của vỏ thân và vỏ rễ keo giậu được nghiên cứu trên chuột nhắt trắng cái. Bột dược liệu được trộn vào khẩu phần án hàng ngày của chuột với tỷ lệ 5%, dùng liên tục trong vòng 30ngày. Trong thời gian trên cho chuột giao hợp bình thường với chuột đực. Kết quả là vỏ thân keo giậu gây ngừa thai đạt tỷ lệ 18/20 chuột, vỏ rễ đạt 20/20 chuột, trong khi đó ở lô đối chứng chuột đẻ bình thường. Như vậy, vỏ thân và vỏ rễ keo giậu bằng đường uống có tác dụng ngừa thai rõ rệt trên chuột nhắt trắng.

- Chú ý:

Ngọn, lá, quả và hạt keo giậu đều được trâu bò, dê cừu thích ăn, nhưng nếu dùng với lượng nhiều thì tất cả các bộ phận của cây đều độc đối với gia súc, gia cầm có một dạ dày (monogastric) như ngựa, lợn, thỏ, gà; còn đối với loài nhai lại như trâu bò, lại không gây độc. Hạt keo giậu tuy có hàm lượng protein cao, nhưng không dùng để nuôi gà được vì nó có thể gây tử vong. Người ta cho rằng độc tính của keo giậu là do một alcaloid có trong cây được gọi là leucenin hoặc leucenol, chất này đồng nhất với chất mimosin có trong cây xấu hổ (Mimosa pudica). Còn có tài liệu cho rằng cây keo giậu có khả năng thu hút được selenium từ đất và đem tập trung vào hạt, nên nhiều triệu chứng ngộ độc ở súc vật do ăn quá nhiều hạt keo giậu rất giống với những triệu chứng ngộ độc do selenium gây nên.

Gà con ăn hạt keo dậu có thể bị chết; Thỏ ăn lá và hạt gặp phải tình trạng ngộ độc và tăng tỷ lệ chết; Lợn ăn lá bình linh giảm chức năng sinh sản tạm thời; Lừa, ngựa, dê ăn lá bình linh có hiện tượng rụng đuôi lông, rụng lông và rụng bờm. Tuy nhiên những loài nhai lại như trâu bò khi ăn lá bình linh thì không nhận thấy tác hại nào.

Chiết xuất từ hạt của cây bình linh có thể làm giảm hoạt động của cơ, ức chế hoạt động của hệ thần kinh trung ương và làm chậm tốc độ hô hấp.

Tính vị

Vị hơi đắng, mùi thơm, mùi, tính mát.

Công năng: 

Trị giun đũa. Vỏ rễ có tác dụng giải uất, tiêu thũng, chỉ thống.

Công dụng: 

Để trị giun, thường dùng hạt tươi ăn hoặc dùng hạt khô rang lên cho nở, tán bột uống, hoặc thêm đường làm thành bánh

Cách dùng, liều lượng: 

Hạt khô rang cho nở, tán bột dùng hoặc thêm đường làm thành bánh. Ngày dùng 10 - 15g (trẻ em) hoặc 25 - 50g (người lớn), uống vào sáng sớm lúc đói, uống liền trong 3 - 5 buổi sáng.

Bài thuốc:

1. Chữa giun đũa: Chuẩn bị: Hạt keo dậu già 50g. Rang cho nở đến khi bốc mùi thơm rồi đem tán bột và dùng uống 3 ngày liên tục.

2. Hỗ trợ điều trị yếu sinh lý và tiểu đường: Hạt keo dậu gìa 50g. Rang nhẹ cho khô rồi nấu lấy nước uống, ngày dùng 2 lần. Dùng bài thuốc liên tục trong vòng 3 ngày rồi ngưng từ 2 – 3 ngày rồi sử dụng lại.

3. Chữa chứng vàng da và thiếu máu: Củ mài (hoài sơn), sâm bố chính và bạch biển đậu (đậu ván trắng) mỗi vị 12g, ô tặc cốt (mai mực), hạt keo dậu, ý dĩ và mẫu lệ (vỏ hàu) mỗi vị 6g. Đem sắc uống, mỗi ngày dùng 1 thang.

Chú ý: 

Ăn nhiều hạt keo có thể bị rụng tóc.

Lưu ý

Ngoài ra một số tài liệu ghi chép rằng, chất độc trong cây bình linh có thể gây sảy thai, bướu cổ, chán ăn, chảy nước bọt, giảm khả năng sinh sản và đục thủy tinh thể.

Nên luộc đọt non của cây Keo dậu trong 15 phút rồi bỏ nước để loại bỏ độc tốc trước khi ăn.

Ngoài ra, cũng có thể nấu đọt rau Keo dậu với nồi sắt để tạo phản phức hợp giữa kim loại và mimosin từ đó làm giảm nồng độ độc tố trong dược liệu.

Tham khảo:

- Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu), Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, 2004

- Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi), Nhà xuất bản Y học, 1997

- Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi), Nhà xuất bản Y học, 2004

- theplanlist.org

- efloras.org