Logo Website

HÀNH

05/08/2020
Hành có tên khoa học: Allium fistulosum L., họ Hành (Liliaceae). Công dụng: Làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng, chữa tê thấp, chữa cảm mạo, nhức đầu...

HÀNH

Bulbus seu Herba Allii

Tên khác: Thông bạch, Hành hương, Hành hoa, Hom búa (Thái), Sông (Dao), Búa (Tày), Thông bạch, Sông (Dao). English names: Japanese leek, Welsh onion, cibol, stone leek.

Tên khoa học: Allium fistulosum L., họ Hành (Liliaceae).

Tên đồng nghĩaAllium bouddae Debeaux; Allium fistulosum var. caespitosum Makino; Allium fistulosumvar. giganteum Makino; Allium kashgaricum Prokh.; Allium saxatile Pall.; Allium wakegi Araki; Cepa fissilisGarsault; Cepa fistulosa (L.) Gray; Cepa ventricosa Moench; Kepa fistulosa (L.) Raf.; Phyllodolon fistulosum (L.) Salisb.; Porrum fistulosum (L.) Schur

Mô tả: Cây thảo, sống hàng năm, cao khoảng 0,5m. Thân hành nhỡ, chỉ hơi phồng, rộng 0,7 - 1 cm, đẻ nhiều nhánh. Lá hình trụ rỗng, nhẵn, mọc thành túm từ thân hành, đầu thuôn nhọn, dài 30 - 50cm, đường kínẼ 4 - 8mm; bẹ lá to, mỏng, màu trắng, đôi khi pha hồng có nhiều sọc. Cụm hoa hình đầu tròn hoặc tán giả mọc trên một cán rỗng (trục của cụm hoa), cao bằng lá; hoa nhiều có cuống ngắn; bao hoa gồm 6 mảnh bằng nhau hình trái xoan nhọn, màu trắng có sọc xanh xếp thành hai vòng; nhị 6 dài hơn bao hoa, mọc thò ra ngoài, chỉ nhị phình ở gốc. Quả nang hình tròn; hạt hình 3 cạnh, màu đen. Toàn cây có mùi hăng, cay đặc biệt. Mùa hoa quả: tháng 4-11.

Phân bố, sinh thái: Cây được trồng khắp nơi làm gia vị và làm thuốc.

Hành hoa (Allium fistulosum L.) có nguồn gốc chưa chắc chắn, nhưng cây được trồng đầu tiên ở vùng Tây Bắc Trung Quốc vào khoảng 200 năm trước Công nguyên và ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, về sau, cây được trồng rộng rãi ở vùng Đông và Đông Bắc Á. Ở Việt Nam, hành hoa cũng là cây trồng từ lâu và chỉ có ở các tỉnh phía bắc, vào cuối mùa đông hay đầu mùa xuân, thu hoạch trong suốt mùa hè-thu, khi mà hành ta chưa đến thời vụ thu hoạch, ở các tỉnh phía nam, ít thấy trồng loại hành này. Song thay vào đó, vẫn có những giống hành củ nhiệt đới được trồng trong cả mùa khô.

Riêng đối với giống hành hoa nguyên gốc ở phương bắc, cây có thể sinh trưởng tốt trong điều kiện lạnh giá ờ Siberi. Tuy nhiên, giống hành hoa trồng ở các tỉnh phía bắc Việt Nam đã được nhiệt đới hoá. Khi gieo hạt, nhiệt độ vào khoảng gần 20°C, nhưng mùa sinh trưởng lại rơi vào thời tiết nóng ẩm của mùa hè - thu; với nhiệt độ 24 - 30°C. Cả 2 loại hành trồng đều ra hoa quả nhiều. Giống hành hoa được thu hạt để gieo trồng; còn hành củ trồng bằng các củ con. Hành củ và hành hoa đều là những cây ưa sáng, ưa ẩm và không chịu được ngập úng.

Trồng trọt:

Hành hoa thu giống vào tháng 9-10. Thu quả già, phơi khô, chọn lấy hạt chắc, bảo quản kín nơi khô ráo, thoáng mát, đến tháng 1-2 năm sau thì gieo. Hạt để cách năm không mọc.

Đất đồi, đất đồng bằng đều trồng được hành, thích hợp nhất là các loại đất trồng rau, màu. Đất cần làm kỹ, để ải càng tốt, lên luống cao 20cm, mặt luống rộng 70 - 80cm. Mỗi hecta cần bón lót 15-20 tấn phân chuồng hoai mục, 1,5-2 tấn tro bếp và 250 - 300kg supe lân. Nếu không có tro bếp, có thể bón 150 - 200kg kali, ở đất tốt, có thể không cần bón những loại phân trên mà dùng 500 - 600kg phân vi sinh. Phân được trộn đều với đất trên mặt luống hoặc vùi nông 3 - 5cm. Nếu đất quá khô, cần tưới ẩm ttưổc iđii gieo, trồng.

Hành củ được trồng với khoảng cách 20-15 hoặc 20-20cm. Trồng xong dùng đất vụn phủ nhẹ. Hành hoa gieo thành rạch, cách nhau 10 - 15cm. Mỗi mét vuông gieo 4 - 5g hạt. Trước khi gieo, hạt được ngâm vào nước ấm 50°C qua một đêm, vớt ra, rửa sạch, để ráo nước. Sau khi trồng củ hoặc gieo hạt, dùng rơm, rạ, cỏ khô phủ lên mặt luống và tưới nước giữ ẩm. Sau 10 - 12 ngày, hành bắt đầu mọc, cần dỡ bỏ rơm rạ và tiếp tục chăm sóc.

Hành cần được tưới ẩm vừa phải thường xuyên. Vụ đông thường ít có nguy cơ ngập úng mà thường khô hạn. Tưới đủ ẩm là biện pháp hàng đầu bảo đảm cho hành sinh trưởng phát triển. Hành rất cần kali. Nhân dân có kinh nghiệm bón nhiều tro bếp vừa để thoả mãn nhu cầu kali, vừa tăng cường độ xốp của đất và chống rét cho cây. Hàng tháng, làm cỏ, xới xáo kết hợp bón thúc bằng nước phân chuồng, nước giải pha loãng. Cũng có thể tưới đạm với nồng độ 2%, tuỳ tình hình sinh trưởng của cây.

Hành hoa khi cao 10-15cm cần nhổ tỉa, giữ lại cây theo khoảng cách đã định. Cây tỉa ra đem trồng trên ruộng mới cũng với khoảng cách như trên. Khi trồng, cần cắt bỏ rễ và một phần lá. Mỗi gốc trồng 2-3 cây. Sau 40-45 ngày có thể thu hoạch. Thường thu hoạch hành hoa theo cách tỉa nhánh. Sau khi tỉa, tiếp tục chăm sóc cho nhánh còn lại tiếp tục ra nhánh mới để thu đợt tiếp theo. Cứ 25-30 ngày thu một lứa, liên tục cho đến tháng 7. Lúc này cây bắt đầu ra hoa.

Hành không có sâu bệnh đáng kể.

Thu hái, sơ chế: Thu hái quanh năm. Khi dùng củ hành, bóc lớp vỏ ngoài, nhặt hết rễ; rửa sạch. Thường dùng tươi.

Bộ phận dùng: Củ (dò) hoặc toàn cây (Bulbus seu Herba Allii) thường có tên là Thông; có khi dùng cả hạt, Thông tử.

Thành phần hoá học: Củ hành chứa tinh dầu có sulfur mà thành phần chủ yếu là chất kháng sinh alliin. Còn có acid malic và các acid khác, galantin và chất allisulfit. Hạt chứa S-propenyl-L-ein sulfoxid.

Tác dụng dược lý:

Hành có tác dụng kích thích tiêu hoá, làm ra mồ hôi, lợi tiểu, yên thai, làm sáng mắt, kéo dài tuổi thọ. Đối với hệ tiêu hoá, hành có tác dụng làm tăng sự bài tiết các dịch tiêu hoá, thúc đẩy quá trình chuyển hoá của protid, lipid và hydrat carbon, giúp ăn ngon miệng, chống lại các trường hợp bụng đầy hơi khó tiêu. Đã từ lâu, nhân dân Việt Nam có tập quán ăn dưa hành nhất là vào dịp Tết Nguyên đán, vì dưa hành có nhiều loại men và acid lactic có tác dụng kìm hãm quá trình lên men thối ở ruột, giúp cơ thể tránh được bụng chướng đầy và ngộ độc. Thành phần bay hơi của hành là hoạt chất allicin có tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn như Bacillus diphtheriaeB. tuberculosisSalmonella dysenteriaeStaphylococcus aureusStreptococcus hemolyticus. Nước chiết từ hành (1:1) thí nghiệm trên ống kính, có tác dụng ức chế nhiều loài nấm gây bệnh ngoài da. Nước ép củ hành tươi thí nghiệm trên chuột nhắt trắng đực, cho thẳng vào dạ dày với liều 35g/kg, có tác dụng tăng cường số lần giao phối, làm tăng hàm lượng testosteron trong huyết tương, đồng thời làm tăng trọng lượng túi tinh và tuyến tiền liệt.

Tính vị: Cây hành có vị cay, mùi hăng nồng, tính ấm.

Công năng: Phát hãn (làm ra mồ hôi) lợi tiểu, tiêu viêm.

Công dụng: Làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng, chữa tê thấp, chữa cảm mạo, nhức đầu...

Cách dùng, liều lượng: Mỗi lần có thể dùng 30-60g dùng dạng nước sắc hay ép lấy nước uống.

Bài thuốc:

1. Chữa cảm mạo, nhức đầu, nghẹt mũi: Củ Hành tươi 30g, Gừng 10g sắc uống. Có thể thêm Chè hương 10g nấu nước uống khi còn đang nóng. Đắp chân cho ra mồ hôi. Có thể kết hợp dùng Hành sống 3 củ, Gừng 3 lát với Tía tô 10g thêm ít muối hoặc có thể thêm một quả trứng gà gia vào bát cháo nóng để ăn giải cảm. 

2. Giảm niệu: Giã Hành đắp vào rốn. 

3. Chữa nghẽn ruột do giun đũa: Hành củ 30g nghiền ra với 30g dầu vừng và uống, mỗi ngày 2 lần. 

4. Chữa eczema, phát ban, loét ở chân: Hành tươi giã nát, cho nước đun sôi để rửa các phần đau, tuỳ theo kích thước của phần nhiễm bệnh mà dùng lượng hành nhiều hay ít. 

5. Chữa viêm mũi, nghẹt mũi: Dầm vài ba củ Hành để vào ly, chế nước sôi vào, trùm hoa giấy lên, hít vào mũi. Hoặc dùng nước Hành pha loãng nhỏ mũi. 

6. Chữa bệnh tê thấp: Cho muối vào hành, thêm ít tương đậu nành, xào với dầu thực vật để ăn.

7. Chữa mụn nhọt: dùng một vài cũ hành tươi bỏ vào nồi đun sôi, nấu lấy nước để tắm, rồi uống thêm một vài chén nước đậu sị là có thể sẽ khỏi bệnh. Ngoài ra, dùng củ hành nướng lên, bóc hết vỏ rồi đắp vào chỗ mụn nhọt cũng có tác dụng khá tốt giúp nhanh lành bệnh.

8. Chữa ho và viêm họng, hen suyễn: Chuẩn bị một ít củ hành, một vài củ gừng và 30g rau khúc khô, tất cả được sắc lên, nấu nước cho người bệnh uống kiên trì trong một vài ngày, tình trạng sẽ bệnh sẽ thuyên giảm.

9. Chữa trĩ ngoại: chuẩn bị 1 kg hành củ, giã nát, sắc với nước thành một tô lớn rồi đổ vào một cái bô. Dùng giấy bóng hoặc bạt dày (loại không bị hơi nóng làm chảy nhựa) bịt kín miệng bô, chín giữa có khoét thành một lỗ nhỏ. Cho người bệnh ngồi xổm trên bô, sao cho hậu môn đặt đúng lỗ nhỏ đã khoét sẵn để xông hơi nóng từ nước củ hành bốc lên. Ngồi khoảng một thời gian, khi đã cảm thấy hậu môn ấm lên và đã thụt vào, có thể dùng tay ấn nhẹ đẩy vào là được.

10. Chữa nhức đầu: Dùng 1 lon gạo nếp nấu chín trộn với lá hành đã thái nhỏ, thêm một ít lá lốt thái nhỏ, buộc vào khăn mỏng đắp lên đầu cho người bệnh (khi nào cảm thấy quá nóng thì lấy ra, rồi đắp lại). Mỗi ngày đắp 3 lần ở cả vùng đầu và thái dương cho đến khi cơm nếp đã nguội là được.

11. Chữa da bị vết thương hở: lấy 1 củ hành giã nát với mật ong rừng, đắp lên và băng bó lại cũng có tác dụng làm lành vết thương.

12. Chữa phụ nữ bị sưng vú, cũng có thể lấy một vài củ hành hấp nóng để chườm và đắp cũng có tác dụng giảm sưng.

13. Phụ nữ động thai: Hành tươi 60g, thêm một bát nước, sắc kỹ, lọc bỏ bã cho uống.

Tham khảo:

- Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu)

- Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)

- Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi)

- theplanlist.org

- efloras.org