Logo Website

BA ĐẬU TÂY

06/04/2020
Nhựa mủ Ba đậu tây thường được dùng để tiệt trùng, có nơi dùng chữa bệnh hủi. Hạt chỉ thường được dùng làm phân vì giàu albumin. Ở Công Gô người ta dùng hạt làm thuốc xổ với liều 2-3 hạt trong một ngày, nhưng nếu dùng với liều cao sẽ gây khó tiêu dẫn tới tai biến có thể làm chết người.

BA ĐẬU TÂY 

Ba đậu tây Hura crepitans

Ba đậu tây - Hura crepitans L.; Ảnh: Tony Rodd, CC BY-NC-SA

Tên khoa học: Hura crepitans L.; Họ: Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Tên đồng nghĩaHura brasiliensis Willd.; Hura crepitans var. membranacea Müll.Arg.; Hura crepitans f. oblongifolia Müll.Arg.; Hura crepitans var. oblongifolia Müll.Arg.; Hura crepitans f. orbicularis Müll.Arg.; Hura crepitans var. orbicularis Müll.Arg.; Hura crepitans f. ovata Müll.Arg.; Hura crepitans var. ovata Müll.Arg.; Hura crepitans var. senegalensis (Baill.) Boiss.; Hura crepitans var. strepens Müll.Arg.; Hura senegalensis Baill.; Hura strepens Willd.

Tên khác: Vông đồng, cây dầu bóng.

Tên nước ngoài: Sand-box tree, monkey dinner-bell (Anh); arbre du diable, sablier clastique (Pháp).

Đặc điểm thực vật (Mô tả):

Cây to, cao 10 - 20 m. Thân có gai và nhựa mủ trắng. Lá mọc so le, hình trứng, gốc tròn hoặc hình tim, đầu thuôn thành mũi nhọn, gân lá lỏa đều sít nhau; cuống lá dài, có tuyến nhỏ ở chỗ tiếp giáp với gốc lá. Cụm hoa mọc ở ngọn thành bông gồm hoa đực và hoa cái riêng; hoa đực có đài hình đấu, tràng 0, nhị nhiều dính với nhau ihành một cột; hoa cái có đài giống hoa đực, bầu 5 - 20 ô. Quả nang, to, dẹt, hình bánh xe, có nhiều gờ múi, khi chín nứt dọc tung hạt đi xa; hạt hình trái xoan dài.

Mùa hoa quả: tháng 6-8.

Phân bố, sinh thái:

Chi Hura L. có một loài là ba đậu tây ở Việt Nam. Cây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, sau được du nhập khắp các vùng nhiệt đới khác ở châu Phi và châu Á.

Ba đậu tây được nhập trổng vào Việt Nam khoảng vài trăm năm trở lại đây. Cây được trồng để lấy bóng mát ở hai bên đường, song do tán lá nặng nể, cành giòn dễ bị gãy khi gặp giông bão nên không được chú trọng. Hiện nay cây chỉ còn ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình và rải rác ở vài tỉnh phía nam.

Ba đậu tây là loại cây gỗ lớn, mọc nhanh, có thể sống được trên nhiều loại đất, ưa sáng và có thể chịu được thời tiết hạn hán hoăc khô nóng. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm; hạt dễ nảy mầm. Tuy nhiên, với khả năng tái sinh dinh dưỡng khỏe, người ta thường trồng bằng cành, với tỷ lệ sống gần như 100%.

Bộ phận dùng: Vỏ cây và hạt (Cortex et Semen Hurae).

Thu hái: Vỏ cây thu hái quanh năm, hạt lấy từ những quả chín. 

Thành phần hoá học:

Hạt ba đậu tây chứa 37% dầu béo, 26,63% protein. Khô dầu (bã của hạt) có các thành phần như N: 11,12%; K2O; 2,13%; P2O5: 1,21%; CaO: 2,34%.

Tro của hạt giàu chất kali.

Nhựa mủ của cây chứa chất độc là hurin, hurain và crepitin. Nhựa thường được dùng ruốc cá hoặc tẩm tên độc. (The wealth of India, vol V. 1959, 137)

Lá cây còn chứa các protein có tính bất hoạt ribozom (ribosome - inactivating proteins) (CA - 124, 1996, 253872g).

Tác dụng dược lý:

1. Tác dụng gây tẩy và gây nôn: Hạt ba đậu tây, dầu chiết từ hạt, vỏ thân và nhựa từ vỏ thân có tác dụng gây tẩy và gây nôn rất mạnh. Dùng quá liều sẽ gây đi ngoài ra máu, nhiễm độc nặng và có thể chết người.

2. Tác dụng độc: Hạt, dầu hạt, vỏ thân, nhựa mủ đều rất độc, có tác dụng diệt sâu bọ, đặc biệt chất crepitin có độc tính rất cao. Nếu dính vào da, có thể gây rộp da, bắn vào mắt gây tổn thương mắt và có thể bị mù.

Tính vị, công năng:

Hạt ba đậu tây, dầu hạt, vỏ cây và nhựa mủ có tác dụng ăn da, tẩy và gây nôn.

Công dụng:

- Để trừ mụn nhọt và các bệnh ngứa lở ngoài da, lấy vỏ tươi ba đậu tây giã nát đắp ngoài, Ở Peru, lá cây phơi khô, cuộn thành điếu hút để chữa hen. Nhựa cây chấm vào chỗ sâu răng chữa đau răng.

- Nhựa mủ thường được dùng để tiệt trùng, có nơi dùng chữa bệnh hủi. Hạt chỉ thường được dùng làm phân vì giàu albumin. Ở Công Gô người ta dùng hạt làm thuốc xổ với liều 2-3 hạt trong một ngày, nhưng nếu dùng với liều cao sẽ gây khó tiêu dẫn tới tai biến có thể làm chết người.

- Việt Nam thường dùng vỏ cây làm thuốc tẩy, trị táo bón, gây nôn và chữa mụn nhọt, bướu. Có thể dùng vỏ cây sắc nước uống hoặc nấu cao. Ðể trừ mụn nhọt và các bệnh ngoài da, dùng vỏ tươi giã nát đắp ngoài.

Chú ý:

Toàn cây, nhựa, vỏ thân, hạt đều rất độc, khi dùng phải hết sức thận trọng; người không có kinh nghiệm không nên dùng.

Tham khảo:

Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu)

Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)

Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi)