MÍA DÒ - Chữa chứng viêm tai, viêm mắt
MÍA DÒ
Rhizoma Costi Speciosi
Mía dò: Cheilocostus speciosus (J.Koenig) C.D.Specht; alchetron.com and libproject.hkbu.edu.hk
Tên khác:
Cát lối, Ðọt đắng, Sẹ vòng, Tậu chó, Cây chót, Nó ưởng, Ỏi phạ (Tày), Co ướng bôn (Thái), Elegant costus (Anh), Costus élégant (Pháp).
Tên khoa học:
Cheilocostus speciosus (J.Koenig) C.D.Specht, họ Mía dò (Cheilocostus).
Tên đồng nghĩa:
Amomum arboreum Lour.; Amomum hirsutum Lam.; Banksea speciosa J.Koenig; Cardamomum arboreum (Lour.) Kuntze; Costus angustifolius Ker Gawl.; Costus argyrophyllus Wall.; Costus crispiflorus Stokes; Costus foeniculaceus Noronha; Costus formosanus Nakai; Costus formosanus (Nakai) S.S. Ying; Costus glaber (K.Schum.) Merr.; Costus glabratus Rchb.; Costus hirsutus Blume; Costus lamingtoniiF.M.Bailey; Costus loureiroi Horan.; Costus nipalensis Roscoe; Costus potierae F.Muell.; Costus sericeus Blume; Costus speciosus (J.Koenig) Sm.; Costus speciosus var. angustifolius Ker Gawl.; Costus speciosus var. argyrophyllus Wall. ex Baker; Costus speciosus var. dilnavaziae M.R.Almeida & S.M.Almeida; Costus speciosusvar. formosanus (Nakai) S.S.Ying; Costus speciosus var. glaber K.Schum.; Costus speciosus var. hirsutus(Blume) K.Schum.; Costus speciosus var. hirsutus Blume; Costus speciosus var. leocalyx Nakai; Costus speciosus var. sericeus (Blume) K.Schum.; Costus spicatus var. pubescens Griseb.; Costus vaginalis Salisb.; Hellenia grandiflora Retz.; Kaempferia speciosa (J.Koenig) Thunb.; Planera speciosa (J.Koenig) Giseke; Pyxa speciosa (J.Koenig) M.R.Almeida; Tsiana speciosa (J.Koenig) J.F.Gmel.
Mô tả:
Cây thảo, sống lâu năm, cao 1-2m, có khi đến 3. Thân rễ to, nạc, mọc bò ngang, phần non có vẩy bao bọc, vẩy có lông ngắn. Thân xốp, ít phân nhánh. Lá mọc so le, hình trứng thuôn, gốc tròn có bẹ, đầu nhọn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn, dài 15-20cm, rộng 6-7cm, gân chính nổi rõ. Lá non mọc thành một đường xoắn ốc rất đặc biệt. Bẹ lá nhẵn hoặc có lông, lúc non mầu lục nhạt sau chuyển trắng ngà hoặc đỏ sẫm; lưỡi bẹ phẳng hoặc hơi vát. Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành bông chùy, dài 8-13cm, rộng 5-9cm; lá bắc dày, xếp lợp, mầu đỏ, có mũi nhọn, lá bắc con kề bên, cùng mầu; đài hình ống loe ở đầu, có 3 răng cứng mầu đỏ sẫm; tràng hình phễu, có ống ngắn và cong mầu trắng, họng vàng, nhẵn hoặc có lông; nhị dạng cánh mang một bao phấn, chỉ nhị kết hợp với trung đới kéo dài thành một phần phụ hình trứng đảo hẹp, đầu tròn cong lòng máng ôm lấy vòi nhụy; cánh môi to, mầu hồng, trắng hoặc vàng, khía răng ở đầu; bầu nhẵn hoặc có lông. Quả nang hình trứng hoặc hình bầu dục có 3 cạnh, mầu đỏ sẫm, có đài tồn tại; hạt nhiều, có cạnh không đều mầu đen. Mùa hoa quả: tháng 7-11.
Bộ phận dùng:
Thân rễ (Rhizoma Costi Speciosi).
Phân bố:
Mía dò chỉ thấy phân bố ở vùng nhiệt đới châu Á, bao gồm Ấn Độ, Xrilanca, Thái Lan, Malaysia, Lào, Campuchia, Việt Nam, các tỉnh Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Ở Việt Nam, cây phân bố rộng rãi ở tất cả các tỉnh thuộc vùng núi, trung du và cả đồng bằng. Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, thưòng mọc thành khóm lớn trên đất ẩm, xen với các cây cỏ khác ở ven rừng, ven bờ sông suối, bờ nương rẫy. ở vùng đồng bằng ít gặp hơn, trong các lùm bụi quanh làng hay vườn đã bị bỏ hoang lâu ngày. Các tỉnh có nhiều mía dò là; Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, ở miền Nam cây mọc trên các bờ kênh rạch. Độ cao phân bố của cây rất rộng, từ vài chục mét đến gần 1500m.
Mía dò là cây sinh trưởng phát triển nhanh trong mùa xuân - hè. Từ thân rễ, hàng năm mọc ra nhiều chồi theo hướng nằm ngang. Loại chồi này mọc thành cây và có thể ra hoa quả ngay trong năm đầu tiên. Sau khi quả già, phần trên mặt đất thường lụi đi. Cá biệt có trường hợp cây không lụi, nhưng lại mọc chồi ở nách lá. Quả mía dò khi già tách thành 3 mảnh để hạt thoát ra ngoài. Cây con mọc từ hạt thường thấy vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Mía dò có khả năng tái sinh vô tính khoẻ. Các đoạn thân khi sinh cũng như các đoạn thân rễ đều có thể tạo thành cây mới.
Nguồn trữ lượng mía dò ở Việt Nam rất dồi dào, ước tính đến hàng ngàn tấn.
Cách trồng:
Mía dò đã được nghiên cứu trồng ở Trại cây thuốc Văn Điển và một số địa phương vào cuối những năm 70 đến những năm 80. Cây ưa khí hậu nóng ẩm, nhưng không chịu được úng.
Mía dò có thể nhân giống bằng hạt, đoạn thân hoặc rễ củ. Cây trồng từ hạt sinh trưởng chậm, củ nhỏ, năng suất thấp, hiệu quả kinh tế kém. Trong sản xuất người ta áp dụng phương pháp nhân bằng đoạn thân hoặc bằng rễ củ.
Vào tháng 12, chọn những thân 1 năm tuổi, cắt thành đoạn dài 20 - 25cm, chứa 2 - 3 mắt, nhúng vào nước vôi trong khoảng 15 phút, vớt ra để ráo, rồi đem trồng hoặc ủ trong cát ẩm cho nảy mầm. Trong quá trình ủ không tưới quá ẩm dễ làm thối hom giống. Hoặc lấy đoạn thân rễ có ít nhất 2 mầm ngủ khoẻ, nặng 40 - 80g để ủ mầm. Không dùng đoạn thân rễ dưới 40g hoặc trên 80g. Nếu đoạn giống nhò quá, cây mọc yếu vì không đủ chất dinh dưỡng dự trữ trong thời gian đầu; hoặc to quá, trồng sẽ lâu mọc vì thòi gian ngủ nghỉ của mầm kéo dài. Một hecta cần 2-2,5 tấn củ giống.
Thời vụ trồng mía dò ở miền Bắc tốt nhất là tháng 2-3. Chọn đất cao, nhẹ, thoát nước và giữ ẩm tốt. Đất được cày bừa kỹ, để ải, lên luống cao 20 - 25cm, rộng 80 - 120cm. ở sườn đồi, bãi ven sông hoặc đất dốc thoát nước, có thể trồng thành vạt, không cần lên luống. Khoảng cách trồng thường 30 X 40cm, 40 X 40cm hoặc 40 X 50cm, tuỳ theo độ phì của đất. Mỗi hecta cần bón lót 20 tấn phân chuồng mục, 270 - 400kg supe lân và 100 - 150kg kali. Hom giống được trồng sâu 8 - lOcm, lấp đất và tưói ngay. Nếu có điều kiện, dùng rơm, rác phủ txên mặt luống để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.
Sau khi cây mọc, chỉ cần tưới khi trời quá khô hạn, nhưng phải chú ý thoát nước nhanh sau mỗi trận mưa lớn. Lúc cây còn nhỏ, cần làm cỏ 1 - 2 lần, về sau cây lớn có khả năng lấn át cỏ dại. Vào tháng 5-6, trước mùa cây sinh trưởng mạnh, cần bón thúc cho mỗi hecta 100 - 150kg đạm. Khi cây ngủ đông, làm vệ sinh đồng ruộng, chặt bỏ những cây gẫy, đổ, thu dọn lá già, lá héo, bổ sung thêm 10 - 15 tấn phân chuồng, 150kg supe lân và 100 kg kali. Sang xuân, cây tái sinh và mọc thêm mầm mới. Đến tháng 5-6, lại bón thức cho mỗi hecta lOOkg đạm. Mía dò không có sâu bệnh gì đáng kể.
Cây trồng được 1 8 - 2 0 tháng cho thu hoạch thân rễ. Thu lúc cây bắt đầu ra hoa (tháng 8) tuy tỷ lệ diosgenin cao, nhưng năng suất thân rễ còn thấp, nước còn nhiều. Thu muộn hơĩi, lúc cây đã ngủ đông (tháng 11), tỷ lệ diosgenin giảm nhưng năng suất lại cao, hàm lượng nước cũng ít.
Thu hái:
Thu hái thân rễ vào mùa thu, rửa sạch, tỉa bớt rễ, thái nhỏ, đồ chín và phơi khô.
Chế biến, bảo quản:
Sau khi được thu hoạch về, nó sẽ được cắt bỏ đi các loại rễ con, mang đi rửa sạch, thái phiến. Sau đó được đưa đi sấy hoặc phơi cho thật khô rồi cho vào bao kín để bảo quản. Trường hợp là thân rễ khô, cần phải ủ cho mềm rồi mới đem đi thái phiến. Đem chúng bỏ vào chảo và sao lên với ngọn lửa nhỏ cho đến khi thấy bề mặt được thái phiến ngả sang màu vàng. Nếu là búp và cành non thì đem sử dụng khi đang tươi.
Thành phần hoá học:
Trong thân rễ có chủ yếu là các hydrat cacbon, các chất albuminoid. Saponin steroid (Diosgenin, tigogenin) và một số saponin khác.
Phương pháp chiết xuất diosgenin từ thân rễ mía dò:
Dịch chiết mía dò đem ủ men. Các men ⍺ - glucosdase trong dược liệu sẽ chuyển hoá dạng vòng F mở sang dạng vòng F đóng (Sprostanol glycosid), thủy phân bằng acid (HCl, H2SO4). Sẽ cho genin là diosgenin. Cũng có thể ủ men ngay trong môi trường nước. Bột, thân, rễ mía dò (ở 38 - 39°C) rồi thủy phân dược liệu đã ủ men, xong chiết diosgenin bằng dung môi không phân cực (xăng, ether dầu...).
Tác dụng dược lý:
- Tác dụng chống viêm:
Cao mía dò đều mang lại tác dụng kháng viêm rõ rệt ở cả 2 giai đoạn là viêm cấp tính và viêm mạn tính.
Đối với các trường hợp bị viêm cấp tính: Dùng cây mía dò với liều lượng 0,15g/kg, 0,25g/kg để chữa phù trên bàn chân chuột cống, sẽ mang đến tác dụng ức chế phù đạt 32 – 58,5%. Nếu gây phù bằng kaolin với liều lượng tương đương, tác dụng kháng viêm chiếm 49,7% và 52%. Trên mô hình gây viêm nội khớp thực nghiệm ở chuột cống trắng, dùng cao mía dò với liều lượng 0,25g/kg mang lại tác dụng ức chế chứng sưng khớp là 55,6 %.
Nếu viêm mạn tính: Ở mô hình gây u hạt thực nghiệm trên chuột trắng, trọng lượng u hạt giảm 29,5% và 47,2% nếu dùng cao mía dò với liều lượng 0,75% và 1,25%.
- Tác dụng giảm đau:
Thí nghiệm gây đau nội tạng trên chuột nhắt trắng bằng cách tiêm xoang vùng bụng dung dịch acid acetic. Dùng cao mía dò với liều lượng 0,17g/kg, 0,25g/kg sẽ khiến cho các lần quặn đau giảm 48,8%, so với lô đối chứng giảm 60%.
- Tác dụng gáy thu teo tuyến ức:
Thí nghiệm trên chuột cống trắng đực đang non, dùng cao mía dò bằng cách tiêm dưới da với liều lượng 0,3% và 0,5%. Nó có tác dụng giảm trọng lượng tuyến ức so với lô đối chứng là 34,5% và 49,7%.
- Sự ảnh hưởng của mía dò đối với khả năng sinh sản:
Cho cả chuột cống đực và cái sử dụng cao mía dò với liều lượng 0,7g/kg liên tục trong 10 ngày. Đồng thời, theo dõi quá trình giao phối giữa chuột trắng đực và cái cho thấy cao mía dò không làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chuột.
+ Độc tính:
Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, bằng đường uống, cao mía dò có LD50 = 7,28g/kg (5,38 - 9,82g/kg). về độc lính mạn, liều dùng hàng ngày 0,3g/kg trong 30 ngày liên tiếp, được tiến hành trên thỏ không gây ảnh hưởng đến cân nặng, các chỉ số huyết học và công năng gan, thận. Theo tài liệu nước ngoài (Pandey V.B), hỗn hợp saponin chiết được từ mía dò có tác dụng chống viêm rõ rệt, tương đương với tác dụng của ß - methason. Thí nghiệm trên chuột cống cái đã cắt buồng trứng, hỗn hợp này làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa.
Tính vị:
Tính mát, vị cay, hơi đắng, có độc nhẹ.
Công năng:
Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng, chống viêm
Công dụng:
+ Thân rễ chữa viêm thận thuỷ thũng, xơ gan; Cổ trướng và viêm nhiễm đường tiết niệu; Ho gà; 4. Giảm niệu; Ðái buốt, đái dắt; Cảm sốt, môi rộp, khát nước nhiều. Ngọn và cành non còn tươi, nướng, giã , vắt lấy nước nhỏ tai chữa viêm tai.
+ Thân rễ là nguồn dược liệu dùng để chiết xuất diosgenin.
Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc cao mềm.
Bài thuốc:
1. Chữa viêm thận phù thũng cấp, phù nề: Dùng 15g Mía dò đun sôi uống.
2. Chữa trị các bệnh da liễu như mẩn ngứa, eczema, nổi mề đay:
Cách thực hiện bài thuốc này cũng rất đơn giản, chỉ cần chuẩn bị khoảng 1 nắm lá và thân mía dò đang tươi, nếu không có sẵn mía dò tươi, bạn có thể dùng loại đã phơi khô để thay thế. Cho các nguyên liệu này vào nồi và nấu lên. Dùng nước thuốc pha với nước lạnh để tắm. Đồng thời, lấy bã thuốc để thoa lên vùng da cần điều trị. Thực hiện thường xuyên sẽ thấy nó mang lại tác dụng tốt.
3. Chữa chứng viêm tai, viêm mắt: Ngọn mía dò tươi. Đem ngọn mía dò đã chuẩn bị nướng lên cho nóng. Sau đó ép lấy nước, nhỏ trực tiếp nước cốt của nó vào tai hoặc mắt. Kiên trì thực hiện liên tục khoảng 3 – 4 ngày, mỗi ngày 2 lần.
4. Điều trị viêm xơ gan cổ trướng: 10g cây mía dò khô, 10g hạt dành dành, 15g nhân trần, 10g lá bồ công anh. Đem các nguyên liệu trên cho vào ấm, sắc lên với khoảng 4 bát nước. Đun với ngọn lửa nhỏ cho đến khi nước cạn còn 1,5 lít nước thì tắt bếp. Chia lượng nước thuốc trên thành 2 lần dùng vào buổi sáng và tối. Để mang đến tác dụng tốt nhất, hãy dùng sau bữa ăn khoảng 15 phút.
5. Chữa viêm đường tiết niệu (tiểu rắt, tiểu buốt): 10g rễ mía dò khô, 10g lá mã đề, 10g râu ngô, 10g rễ cỏ tranh. Đem các nguyên liệu này sắc với khoảng 1,5 lít nước để uống hàng ngày.
Những bài thuốc từ loại cây này được cho là an toàn vì nó ít khi gây ra tác dụng phụ. Tuy nhiên, bệnh nhân cũng cần phải kiên trì thực hiện thường xuyên, đồng thời kết hợp với chế độ ăn uống và sinh hoạt khoa học thì mới mang đến tác dụng tốt.
Cây có công dụng tương tự:
Mía dò hoa gốc (Costus tonkinensis Gagnep.) cùng họ. Đó là một cây thảo, phân nhánh nhiều. Lá già mọc theo đường xoắn ốc, hai mặt nhẵn. Cụm hoa mọc từ thân rễ, lúc đầu nằm ngang sau vươn thẳng; hoa có kích thước nhỏ hơn hoa mía dò, cánh môi màu vàng tươi.
Tham khảo:
- Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu), Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, 2004
- Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi), Nhà xuất bản Y học, 1997
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi), Nhà xuất bản Y học, 2004
- theplanlist.org
- efloras.org
Bài viết Cây thuốc - Vị thuốc khác
- Công dụng của cây Chòi mòi - Antidesma ghaesembilla
- Công dụng của cây Vẹt đen - Bruguiera sexangula (Lour.) Poir.
- Công dụng của cây Vẹt trụ - Bruguiera cylindrica
- Công dụng của cây Bầu nâu - Aegle marmelos
- Công dụng của cây nghệ lá từ cô - Curcuma alismatifolia
- Công dụng của cây Dướng leo - Broussonetia kazinoki
- Công dụng của cây Cúc leo - Mikania micrantha
- Công dụng của cây Gièng gièng - Butea monosperma
- Công dụng của cây Hoàng liên gai - Berberis julianae
- Công dụng của cây Móng bò sọc - Bauhinia variegata
- Công dụng của cây Hoa chông - Barleria cristata
- Công dụng của cây Khôi nước - Baliospermum solanifolium
- Công dụng của cây Hũng hoa to - Beaumontia grandiflora
- Công dụng của cây Tam lang - Barringtonia macrostachya
- Công dụng của cây Mấu chàm - Bauhinia scandens L.
- Công dụng của cây Thốt nốt - Borassus flabellifer
- Công dụng của cây Bù ốc leo - Stephanotis volubilis
- Công dụng của cây Móng bò vàng - Bauhinia tomentosa
- Công dụng của cây Nam sâm tàu - Commicarpus chinensis (L.) Heimerl
- Công dụng của cây Vẹt rễ lồi - Bruguiera gymnorhiza