BA GẠC PHÚ THỌ
BA GẠC PHÚ THỌ
Ba gạc phú thọ - Rauvolfia vomitoria Afzel. ex Spreng.; Ảnh: smugmug.com
Tên khoa học: Rauvolfia vomitoria Afzel. ex Spreng.; Họ Trúc đào (Apocynaceae).
Tên đồng nghĩa: Rauvolfia congolana De Wild. & T.Durand; Rauvolfia pleiosiadica K.Schum.; Rauvolfia senegambiae A.DC.; Rauvolfia senegambiae DC.; Rauvolfia stuhlmannii K.Schum.
Tên khác: Ba gạc bốn lá, bầu giác, ba gạc châu phi.
Mô tả:
Cây nhỡ cao 4-8m, thường là 3-4 m, phân nhánh nhiều. Thân cành màu nâu bạc, có nốt sần và vết sẹo của lá; nhựa mủ trắng, lá mọc vòng 3-5 cái, phần nhiều là 4, hình ngọn giáo đến bầu dục, dài tới 20cm, rộng 7cm. Hoa nhỏ, nhiều, màu trắng lục, mọc thành xim hai ngả hình tán ở nách lá và đầu cành. Cánh hoa xoăn, ống tràng phình ở hai đầu, vòi nhuỵ có lông ở gốc. Quả đại xếp từng đôi, có khi chỉ có 1 cái phát triển hình trứng hoặc hình cầu, khi chín màu đỏ cam, hạt dẹt cong, có khía. Hoa tháng 7-8, quả tháng 9-12. Mùa hoa: tháng 7 - 8; mùa quả: tháng 9-11.
Phân bố, sinh thái:
Ba gạc Phú Thọ có nguồn gốc hoang dại ở châu Phi, loài này cùng với ba gạc hoa đỏ là nguồn cung cấp nguyên liệu ba gạc chủ yếu của thế giới, để chiết xuất hoạt chất làm thuốc chữa cao huyết áp.
Ba gạc Phú Thọ được phát hiện đầu tiên ở Việt Nam năm 1959 tại vùng Phú Hộ thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa xác định được cụ thể về xuất xứ của cây này là vốn mọc tự nhiên hay đo người Pháp đưa vào trồng tại Trại cây nhiệt đới Phú Hộ trước đây, sau trở nên hoang dại hoá.
Đó là một cây bụi lớn, ưa ẩm, ưa sáng. Cây còn nhỏ có thể hơi chịu bóng. Do khả năng tái sinh cây chồi tốt, nên phần lớn các cá thể còn sót lại ở vùng Phú Hộ hiện nay (tổng số 56 cây - điều tra năm 1997) là cây chồi, đã bị chặt đốn nhiều lần. Cây sinh trưởng phát triển tốt trong điều kiện khí hậu và đất đồi vùng trung du. Những cây trồng lưu giữ tại vườn thuốc ngoại thành Hà Nội (Viện Dược liệu) đã được trên 30 năm, vẫn ra hoa quả đều hàng năm.
Do số lượng cá thể hiện còn sót lại trong tự nhiên ít, nên ba gạc Phú Thọ cũng được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam để bảo vệ.
Cách trồng:
Ba gạc Phú Thọ không kén đất, có khả nàng chịu hạn, chịu bóng, ít sâu bệnh.
Ba gạc Phú Thọ mới được phát hiện vào năm 1959. Năm 1979 - 1980, Trạm Dược liệu Vĩnh Phú và sau đó là Viện Dược liệu đã tiến hành nghiên cứu về kỹ thuật trồng trọt.
Cây có thể trồng xen với nhiều loại cây, trên nhiều loại đất; từ đất đồi, đất bạc màu ở các tỉnh trung du đến đất thịt ở các tỉnh đồng bằng, tuy hàm lượng alkaloid và năng suất có khác nhau.
Ba gạc Phú Thọ chủ yếu được nhân giống bằng hạt. Hạt chín và thu vào tháng 9-10 cần xát bỏ vỏ ngoài, đem gieo ngay hoặc phơi khô, bảo quản để gieo vào tháng 2-3 năm sau. Kinh nghiệm nhiều nơi cho thấy, hạt tươi nảy mầm tốt hơn hạt khô. Hạt khô cần được xử lý bằng cách ngâm trong dung dịch acid sulfuric 0,5% ưong 6 - 8 giờ rồi rửa sạch trước khi gieo.
Đất vườn ươm cần được cày bừa kỹ, lên thành luống cao 20 - 25cm, rộng 0,8 - 1m. Hạt có thể gieo vãi hoặc theo rạch, hạt nọ cách hạt kia 7 - 10cm. Gieo xong rắc một lớp đất nhỏ dày 1 - 2 cm rồi dùng rơm, rạ hoặc cỏ khô phủ lên, sau đó tưới giữ ẩm. Hạt sẽ nảy mầm sau 15-20 ngày. Khi cây được 5 - 6 đôi lá thật thì đánh đi trồng. Nếu gieo vào tháng 8 - 9 thì đánh trồng vào tháng 2 - 3 năm sau, nếu gieo vào tháng 2 - 3 thì đánh trồng vào tháng 8 - 9 cùng năm.
Ruộng sản xuất nếu là đồi, gò có thể lên luống theo đường đồng mức hoặc trồng thành vạt, nếu là đồng bằng thì lên luống cao 25 - 30 cm, rộng 1 - 1,2m để trồng với khoảng cách 35 x 40 cm hoặc 40 x 50 cm. Nếu trồng một vài cây làm mẫu thì cần trồng thưa từ 2 - 3 mét một cây.
Sau khi làm đất, ruộng cần được bón phân lót. Trung bình thường dùng từ 10 đến 15 tấn phân chuồng, 150 đến 200 kg supe lân, 75 đến 100 kg kali cho 1 ha. Phân được trộn đều với đất trước khi lên luống. Hàng năm có thể dùng thêm 180 - 270 kg urê, chia làm 2-3 lần để bón thúc cho cây vào các tháng 3, 6, 9. Ngoài ra, còn có thể tưới thêm nước giải, nước phân chuồng. Ba gạc Phú Thọ ít bị sâu bệnh, thỉnh thoảng có rệp sáp, rệp đen hại lá và ngọn câv.
Rễ ba gạc Phú Thọ được thu vào tháng 6 - 7 lúc cây đang ra nụ hoặc tháng 11-12 khi cây tàn lụi, Cây trồng sau 18-24 tháng là có thể thu hoạch. Rễ to cần bóc lấy vỏ khi còn tươi, rễ nhỏ để nguyên, phơi khô. Năng suất trung bình đạt 300 - 400kg vỏ rễ khô/ha.
Bộ phận dùng:
Rễ (Radix Rauvolfiae Vomitoriae).
Thành phần hóa học:
Chủ yếu là alkaloid tập trung ở rễ và lá. Ở rễ, hàm lượng alkaloid toàn phần là 1 - 1,5%, tập trung 90% ở vỏ rễ. Cây trồng ở Việt Nam có vỏ rễ chứa 3,28 - 5,66% alkaloiđ toàn phần. Rễ chứa reserpin (0,2%), ajmalin, reserpilin và một số alkaloid đặc biệt thuộc các nhóm yohimbin (sederin) và heteroyohimbin (raumitorin = methoxy-10-ajmalicin, rauvanin là đồng phân của reserpin, alstonin là đồng phân của serpentin). vỏ rễ là nguyên liệu để chiết xuất reserpin, ajmalin, reserpilin.
Lá chứa 1% alkaloid là dẫn chất của heteroyohimbin và oxindol tương ứng (rauvocin, rauvocinin). Ngoài ra, lá còn chứa các hợp chấl flavonoid dưới dạng heterosid của kaempferol.
Từ loài cây ba gạc này, đã chiết xuất được 0,05 % reserpin và ajmalin.
Tác dụng dược lý:
Dạng chiết từ ba gạc Phú Thọ trên chó gây mê thực nghiệm có tác dụng hạ huyết áp, đồng thời tăng cường hoạt động tiêu hóa (Raymond - Hamet).
Cao chiết từ ba gạc Phú Thọ đã lấy hết reserpin vẫn còn tác dụng hạ huyết áp trên súc vật thí nghiệm cũng như trên bệnh nhân tăng huyết áp (J. La Barre).
Ở Việt Nam, cao chiết từ vỏ rễ và rễ nhỏ của ba gạc Phú Thọ đã được chứng minh có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt, kéo dài trên mèo và chuột cống trắng. Tác dụng hạ huyết áp xuất hiện cả trên súc vật có huyết áp bình thường và súc vật gây cao huyết áp thực nghiệm. Với liều dùng 20 mg/kg cao ba gạc Phú Thọ có tác dụng hạ huyết áp tương đương với liều 7mg/kg của reserpin. Trên chuột nhắt trắng bằng đường uống LD50 của cao ba gạc Phú Thọ là 977,2 mg/kg (P.D. Mai).
Tính vị, tác dụng:
Rễ có vị đắng tính hàn, có tác dụng hạ huyết áp và an thần.
Công dụng:
Ở Việt Nam, viên Rauvomin được điều chế từ cao ba gạc Phú Thọ đã được điều trị thử nghiệm chống tăng huyết áp trên lâm sàng, thuốc có tác dụng hạ huyết áp tốt, đặc biệt đối với những bệnh nhân tăng huyết áp vừa và nhẹ.
Ở Trung Phi và Tây Phi, ba gạc Phú Thọ đựơc dùng làm nguyên liệu để chiết xuất alkaloid do có hàm lượng alkaloid cao (PROSEA 1999)
Liều dùng: viên Rauvomin 2mg (alkaloid toàn phần), mỗi lần uống 1 - 2 viên, ngày uống 2 lần.
Tham khảo:
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện dược liệu)
Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)
Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam (Đỗ Tất Lợi)
Bài viết Cây thuốc - Vị thuốc khác
- Công dụng của cây Chòi mòi - Antidesma ghaesembilla
- Công dụng của cây Vẹt đen - Bruguiera sexangula (Lour.) Poir.
- Công dụng của cây Vẹt trụ - Bruguiera cylindrica
- Công dụng của cây Bầu nâu - Aegle marmelos
- Công dụng của cây nghệ lá từ cô - Curcuma alismatifolia
- Công dụng của cây Dướng leo - Broussonetia kazinoki
- Công dụng của cây Cúc leo - Mikania micrantha
- Công dụng của cây Gièng gièng - Butea monosperma
- Công dụng của cây Hoàng liên gai - Berberis julianae
- Công dụng của cây Móng bò sọc - Bauhinia variegata
- Công dụng của cây Hoa chông - Barleria cristata
- Công dụng của cây Khôi nước - Baliospermum solanifolium
- Công dụng của cây Hũng hoa to - Beaumontia grandiflora
- Công dụng của cây Tam lang - Barringtonia macrostachya
- Công dụng của cây Mấu chàm - Bauhinia scandens L.
- Công dụng của cây Thốt nốt - Borassus flabellifer
- Công dụng của cây Bù ốc leo - Stephanotis volubilis
- Công dụng của cây Móng bò vàng - Bauhinia tomentosa
- Công dụng của cây Nam sâm tàu - Commicarpus chinensis (L.) Heimerl
- Công dụng của cây Vẹt rễ lồi - Bruguiera gymnorhiza