Logo Website

Học thuyết âm dương: Khái niệm cơ bản và Vận dụng lâm sàng

22/12/2020
Học thuyết Âm Dương đề cập đến quan hệ mâu thuẫn của các hiện tượng sinh lý, bệnh lý trong cơ thể con người, giải thích nguyên tắc chữa bệnh và dược lý. Người ta cho rằng các bộ phận của cong người là do hai loại khác tính chất và công năng nhưng lại thống nhất của vật chất là âm và dương cấu tạo nên. Bệnh tật phát triển được là do hai mặt âm và dương đối lập đã phá vỡ mối quan hệ bình thường gây ra.

1. Khái niệm cơ bản 

Học thuyết Âm Dương đề cập đến quan hệ mâu thuẫn của các hiện tượng sinh lý, bệnh lý trong cơ thể con người, giải thích nguyên tắc chữa bệnh và dược lý. Người ta cho rằng các bộ phận của cong người là do hai loại khác tính chất và công năng nhưng lại thống nhất của vật chất là âm và dương cấu tạo nên. Bệnh tật phát triển được là do hai mặt âm và dương đối lập đã phá vỡ mối quan hệ bình thường gây ra. 

Về kết cấu (cấu tạo) cơ thể và công năng mà nói thì cấu trúc của âm dương có thuộc tính là:
Dương  Âm  Dương  Âm 
Ngoài  Trong Trên  Dưới
Lưng  Bụng Sáu phủ Năm tạng 
Khí  Huyết Công năng Vật chất
Hưng phấn Ức chế Hoạt động Tĩnh tại 
Tăng lên Giảm sút Thăng lên Giáng xuống
Hướng ra Hướng vào     

Những thuộc tính của sự vật trong khái niệm âm dương không phải là tuyệt đối, mà là tương đối. Thường thì theo những điều kiện nhất định mà cải biến, như theo quanhệ giữa lững và ngực là âm (trước-sau) nhưng ở ngực và bụng, thì ngực là dương, bụng là âm (trên-dưới). Do đó âm dương là đại danh từ thông dụng của hai mặt đối lập của kết cấu cơ thể và công năng, đặc biệt là dùng để nói rõ quan hệ tương hỗ giữa các mặt đối lập và thống nhất. Biểu hiện chủ yếu có mấy mặt đối lập và thống nhất sau: 

a. Âm dương hỗ căn (âm dương giúp nhau từ gốc): 

Đông y cho rằng “Âm sinh ở dương, dương sinh ở âm”, “riêng âm chẳng sinh, mình dương chẳng lớn”. Điều đó nói sự thống nhất giữa hai mặt đối lập của âm dương để mà tồn tại: Không có âm thì không có dương, và ngược lại. Lại nói “Sự sống ở gốc, gốc ở âm dương”, “Âm dương tách rời, tinh khí mất hết”, nghĩa là mạng sống từ lúc bắt đầu tớic kết thúc là mối quan hệ âm dương tương hỗ trong quá trình tồn tại. Nếu như âm dương mất đi mối quan hệ, mạng sống sẽ ngừng nagy. Quan điểm này của Đôngn y được gọi là âm dương hỗcăn. Ví dụ: Về sinh lý mà nói, công năng toàn thân là dương, cơ sở vật chất là âm. Công năng hoạt động phải dựa vào vật chất là cơ sở, mà qua trình bổ sung vật chất không ngừng, lại cần có công năng mới hoàn thnàh được (hàng loạt hoạt động như tiếp nhận thức ăn, tiêu hóa, hấp thụ, chuyển hóa, tuần hoàn máu...). Về bệnh lý mà nói, như tâm âm bất túc sẽ dẫn đến tâm dương bất túc. 

b. Âm dương tiêu trưởng (âm dương mất dần và lớn dần): 

Đông y cho rằng “Âm tiêu dương trưởng, Dương tiêu âm trưởng” là nơi hai mặt âm dương bị tiêu so với trưởng, biến hóa lạ thường. Do cácc cơ quan, tổ chức trong con người không ngừng hoạt động, vật chất không ngừng tiêu tốn và bổ sung, tiêu trưởng như thế trong phạm vị nhất định là bình thường, nếu như một phía tiêu thái quá, hoặc trưởng thái quá sẽ sinh ra bệnh biến. Do vậy, âm hư (tiêu thái quá) sẽ đưa đến dương cang, dương hư sẽ đưa đến âm thịnh. Ngược lại âm thịnh (trưởng thái quá cũng sẽ dẫn đến dương hư, dương cang dẫn đến âm hư. Ví dụ như bệnh cao huyết áp có một loại hình mà chứng trạng là đau đầu, choáng váng, mất ngủ, nhiều mộng mị, tính tình dễ cáu giận, hấp tấp, lưỡi hồng mà khô, mạch huyền, tế sác cũng là do âm hư đưa đến dương cang mà tạo thành. Hoặc như bệnh cấp tính, nhiệt tính, thường xuyên sốt cao (dương quá thịnh) thường gây chứng trạng âm dịch hao tổn cũng là do dương thịnh âm hư. Trên đây là ví dụ về âm dương tiêu trưởng. 

c. Âm dương chuyển hóa (âm dương chuyển đổi trạng thái) 

"Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm" cùng để nói hai mặt ở điều kiện nhất định đã hỗ t- ương chuyển hóa lẫn nhau. Trên lâm sàng, do nhiều nguyên nhân, ta thấy bệnh biến hóa từ biểu (dương) vào lý (âm), từthực thành hư, từ nhiệt ra hàn. Ví dụ nữa phong hàn biểu chứng không ra được mồ hôi (phát hãn mà không ra được mồ hôi, hoặc chữa nhầm thuốc làm cho biểu tà không trừ được), có thể chuyển thành nhiệt nhập lý, tà thịnh thực chứng, nếu không chữa thương (cảm, mạo, thương, trúng) có thể chuyển thành hư chứng; 'dương thịnh nhiệt chứng, dùng thuốc mát lạnh quá mức có thể biến thành hàn chứng. Ngược lại, cũng đã thấy những biến hóa từ lý ra biểu, từ hư chuyển thành thực, từ hàn sang nhiệt. Ví dụ như bệnh sởi, nọc sởi bị hãm ở trong gây ra những chứng trạng nguy kịch, qua chữa chạy, gìn giữ, ban mọc ra được, nọc sởi từ lý sang biểu, do vậy mà chuyển thành thuận chứng. Chứng khí hư, cũng do khí không hành, huyết uất lại thành huyết ứ thực chứng. Lý hàn chứng, dùng quá nhiều thuốc ôn ấm, thương âm cướp dịch, cũng có thể chuyển thành nội nhiệt. 

Những ví dụ trên đều là âm dương hỗ tương chuyển hóa. 

2 Vận dụng lâm sàng 

a. Vận dụng vào bệnh học 

Đông y cho rằng: "âm bình, dương kín chắc, tinh thần mới yên" đó là nói về hai mặt âm dương trong con người ở trạng thái bình thường mới duy trì hoạt động sinh lý bình thường. Gặp lúc sự cân bằng âm dương bịphá vỡ thì gây nên bệnh tật, là kết quả mộ.mặt nào đó của âm dương thiê thịnh, thiên suy. Căn cứ vào lý lẽâm dương tiêu trưởng, lâm sàng thường thấy như âm thịnh dẫn đến dương suy sẽ có các chứng sợ lạnh, sắc mặt trắng bợt, tự ra mồ hôi, nước tiểu trong mà nhiều, chất lưỡi nhạt, mạch hư, là những chứng của dương hư bất túc: Như Phế âm hư (lúc lao phổi) đưa đến dương cang sẽ sinh ra bứt rứt khó ngủ, ham tình dục, miệng lưỡi khô hồng, mạch sác là chứng của dương cang. Lại căn cứ vào lý của âm dương hỗ căn tìm xem mặt nào của âm dương hư tổn đến đâu thường có thể dẫn đến đối phương bất túc "dương cực cập âm, âm cực cập dương”, như một số bệnh mạn tính khu trú mãi, cuối cùng phát triển thành âm dương đều hư cũng là nguyên cơ này cả. 

b. Vận dụng trên lâm sàng 

Đông y nêu rằng: "'Thứ tự chẩn bệnh. tất phải xét trước về âm dương", cũng như khi phân tích bệnh luôn luôn dùng âm dương mà quy nạp lại, đem những chứng cơ bản khái quát thành hai loại âm chứng và dương chứng. Ví dụ: Thực chứng ở phần rõ ràng là âm thịnh, nhưng lại là dương cang. Hư chứng rõ ràng ở phần âm hư nhưng lại là sau khi dương hư. Từ cơ sở này mới có thể tiến tới phân tích chẩn đoán và đề ra nguyên tắc chữa bệnh. 

c. Vận dụng khi trị liệu 

Đông y nêu lên: "Xét kỹ ở âm dương mà điều, lấy bình làm mức". Ở đây nói về nguyên tắc chữa bệnh của Đông y cũng là thông qua chữa chạy mà cải biến tình huống âm dương của con người thiên thịnh, thiên suy, lấy quan hệ âm dương mà điều chỉnh, từ đó đạt đến tương đối khôi phục bình thường, mục đích làm tiêu trừbệnh tật. Nếu dương thịnh dùng thuốc âm, nếu âm thịnh dùng thuốc dương, mục đích là tả cái có thừa. Nếu dương hư đùng thuốc dương, âm hư dùng thuốc âm với mục đích là bổ cái bất túc. 

Về công dụng tính vị của thuốc mà nói, cũng lấy âm dương mà phân biệt. Như thuốc ấm, nóng thuộc dương, thuốc có vị cay, ngọt, nhạt thuộc dương, thuốc có vị chua, mặn, đắng thuộc âm. Lại như, phàm thuốc có tác dụng thăng phù, phát tán thuộc dương, thuốc có tác dụng trầm giáng, thông tiết (tức tiết tả) thuộc âm. Rõ ràng thuộc tính âm dương của thuốc men cũng có thể chế giảm, ngự trị, điều chỉnh linh hoạt sự mất cân bằng của âm dương. 

Nguồn trích: LƯƠNG Y. LÊ VĂN SỬU; CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y; NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC