Logo Website

Thiên Can và Địa chi trong Đông y

24/12/2020
Thiên can là một quy luật tương ứng giữa sự vận động của vũ trụ và biến đổi sinh học trong cơ thể con người. Địa chi là một quy luật tương ứng giữa mười hai giờ địa chi và tình trạng lưu thông của khí huyết, tạng phủ trong con người. Người xưa nhận ra rằng cứ mỗi giờ địa chi, khí huyết đi qua một đường kinh nhất định và tạng phủ thuộc đường kinh hoạt động công năng mạnh mẽ hơn, bệnh biến cũng bộc lộ rõ hơn, căn cứ vào đó để chữa chạy cũng cho kết quả tốt hơn

I. Thiên can∗

Thiên can là một quy luật tương ứng giữa sự vận động của vũ trụ và biến đổi sinh học trong cơ thể con người.

Thiên can có hệ số đếm từ một đến mười. 

Thiên can trong y học cổ Phương Đông được dùng với hai nội dung như sau: 

Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

1. Thiên can ngũ vận. 

Loại này cách tính lấy 5 can làm một chu kỳ 5 năm, mỗi năm thiên can ứng với một hành: 

Giáp=Thổ

Ất = Kim

Bính=Thủy

Đinh=Mộc

Mậu=Hỏa

Kỷ = Thổ

Canh=Kim

Tân=Thủy

Nhâm=Mộc

Quý=Hỏa

Thiên can Ngũ vận là cách tính Đại vận hàng năm, mỗi năm ứng với một hành, mỗi hành ứng với một khí trong trời đất ảnh hưởng tới công năng sinh lý, bệnh lý của tạng phủ có hành tương ứng (tìm đọc những bài về học thuyết Ngũ Vận - Lục Khí)∗. Thiên Can Ngũ Vận là môn học dự phòng về bệnh thời khí theo quy luật, nhưng do nội dung rất phức tạp và đòi hỏi chuyên sâu, ít dùng trực tiếp trong điều trị triệu chứng, nên chỉtóm tắt, mà không giới thiệu kỹ hơn.

2. Thiên can ngũ hành. 

Loại này lấy hai can chẵn lẻ liền nhau thành một cặp, mỗi cặp ứng với một hành, năm cặp liền nhau làm một chu kỳ:
Giáp, Ất = Mộc; Bính, Đinh = Hỏa;
Mậu, Kỷ = Thổ; Canh, Tân = Kim; Nhâm, Quý = Thủy 

Thiên can Ngũ Hành ứng với tạng phủ không theo khí hậu môi trường ứng với hành như thiên can ngũ vận, mà là ứng với tình trạng hưu, vượng của bản thân khí công năng tạng phủ bên trong theo một trật tự định sẵn. Ví dụ: Bất kể là năm Giáp, Ất; ngày Giáp, Ất; tháng Giáp, Ất; giờGiáp, Ất ấy, khí hậu môi trường là mùa hè hay mùa đông, nóng hay lạnh, ban ngày hay ban đêm, thì công năng của tạng phủ có hành tương ứng với nó là Can, Đảm đều được vượng, và công năng của phủ tạng có hành bị khắc sẽ hưu (giảm), tức là mộc khắc thổ, lúc này Tỳ, Vị bị hưu. 

Thiên can Ngũ Hành được ứng dụng rộng rãi trong các phép tính khí chất, tính giờ huyệt mở trong phép "Tý Ngọ lưu trú”, và tính về bệnh chuyền kinh, chúng ta nắm vững tinh thần này để khi học tập và ứng dụng được nhanh chóng và chính xác. 

Cổ nhân đã làm bài thơ để dễ nhớ như sau: 

Giáp Đảm ất Can, bính Tiểu trường. 

Đinh Tâm, mậu Vị, kỷ Tỳ hương.

Canh thuộc Đại trường, tân thuộc Phế 

Nhâm thuộc Bàng quang, quý Thận tàng Tam tiêu diệc hướng nhâm trung ký,

Bào lạc đông quy nhập quý phương. 

II. Địa chi

Địa chi, nghĩa chữ là chia theo đất, nguồn gốc của nó từ phép chia giờ bằng bóng ngả của ánh sáng mặt trời đổ trên mặt đất, nên gọi là giờ địa chi.
Địa chi là một quy luật tương ứng giữa mười hai giờ địa chi và tình trạng lưu thông của khí huyết, tạng phủ trong con người. Người xưa nhận ra rằng cứ mỗi giờ địa chi, khí huyết đi qua một đường kinh nhất định và tạng phủ thuộc đường kinh hoạt động công năng mạnh mẽ hơn, bệnh biến cũng bộc lộ rõ hơn, căn cứ vào đó để chữa chạy cũng cho kết quả tốt hơn.

Tương ứng giữa 12 giờ địa chi và 12 phủ tạng như sau:

Tý=Đảm
Thìn=Vị Thân=Bàng quang
Sửu=Can Tị = Tỳ Dậu=Thận
Dần=Phế Ngọ=Tâm Tuất=Tâm bào
Mão=Đại trường Mùi=Tiểu trường Hợi=Tam tiêu

Cổ nhân đã làm bài thơ để dễ nhớ như sau:

Phế dần, Đại mão, Vị thìn cung.

Tỳ tị, Tâm ngọ, Tiểu mùi trung.

Thân Bàng, dậu Thận, Tâm bào tuất.

Hợi tam, tý Đảm, sửu Can thông.

Ngoài giờ địa chi ứng với tạng phủ ra, người ta tháng, năm, địa chi nữa, nhưng không phải để ứng với tạng phủ, mà chỉ ứng với tên khí theo năm, ứng với tên con vật có bệnh theo tháng và ngày, điều này cần phân biệt cho rõ.
Người xưa đã dựa trên cơ sở tương ứng giữa 12 giờ địa chi với khí huyết, kinh mạch, tạng phủ mà lập ra phép bổ tả theo giờ địa chi, gọi là phép “Thập nhị kinh bệnh tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp bổ hư, tả thực", phép chữa bệnh này rất có hiệu quả, chúng ta cần lưu ý sử dụng.

∗ Tham khảo thêm “Nguyên lý thời sinh học cổ phương đông”, Lê Văn Sửu – NXB Văn hóa thông tin.
∗ Học thuyết Ngũ Vận - Lục khí là một chuyên đề rất sâu, xem trong sách Trung y khái luận và sách “Quy luật thời khí và biện chứng luận trị về bệnh thời khí”, Lê Văn Sửu – NXB Y học. 

Nguồn trích: LƯƠNG Y LÊ VĂN SỬU; CẨM NANG CHẨN TRỊ ĐÔNG Y; NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC