Logo Website

NHỮNG THU HOẠCH VỀ CHÂM CỨU

04/01/2021

ĐIỀU 76. NHỮNG THU HOẠCH VỀ CHÂM CỨU 

Tôi bắt đầu nghiên cứu về khoa Châm cứu từ năm 1955, qua một thời gian ngắn cho ra quyển "Châm cứu sơ bộ thực hành”, bác sĩ Phạm Bá Cư viết lời tựa. Cách đó ít lâu, bác sĩ Phạm Bá Cư cho tôi xem quyển Tân châm cứu học của bác sĩ Chu Liễn soạn, đồng thời yêu cầu tôi dịch, Lúc đó vì còn là mới nghiên cứu, nên cái sơ hở của Chu Liễn chưa phát hiện ra được. Qua mấy năm sau, tiếp tục dịch luôn mấy bộ lớn như Linh khu, Châm cứu đại thành, và Châm cứu Lâm sàng thực nghiệm của Đại điền Văn Chí.. càng ngày càng đi sâu vào lý luận, càng nhận thấy khoa học châm cứu là vừa sâu, vừa rộng, tuy không phải là vạn năng, nhưng cũng có thể trị liệu được tới 6,7 phần mười các loại bệnh, vô luận là Nội thương hay Ngoại cảm phụ khoa hay nhi khoa, đều cố công hiệu rõ rệt. Tôi tuy biết vậy, nhưng vì tuổi già tay run, thủ thuật thường khi không được chính xác, nên phần nhiều chỉ chữa được những loại bệnh thông thường, như rức đầu, đau bụng, đau rức cánh tay, khớp chân v.v...Còn những bệnh khó thì hiệu quả không thu được mấy. Tựu trung có một vài bệnh về nội thương, lúc bắt đầu chữa chưa dám nắm chắc là sẽ đạt được yêu cầu, vậy mà lại thu dược kết quả khả quan, có thể làm một phần thưởng khuyến khích bằng tinh thần cho sự cố công nghiên cứu. Xin ghi một bệnh về Kinh bế và một bệnh về Di tinh để tự rút kinh nghiệm. 

1. Chị Nguyễn Thị Phi Loan, 16 tuổi, ở phố Hàng Lược, (quận Hoàn Kiếm) Hà Nội, học sinh lớp 8 trường phổ thông, mẹ mất sớm, ở với bố. Vào khoảng mùa xuân năm Nhâm dần (1962) bắt đầu hành kinh. Vì là lần đầu thấy huyết ra, không biết là hành kinh, rất hoảng sợ, vào buồng tắm cặm cụi rửa...Rồi cứ lúc nào thấy huyết ra là lại rửa mất tới 20, 30 phút. Kinh ra tới 4 ngày mới sạch, cũng rửa cả 4 ngày, cứ một mình vừa cặm cụi vừa lo lắng...cũng không dám hé răng với ai. 

Sau khi kinh sạch được vài ngày, thấy tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh, da thường nổi gai óc, eo lưng đau rức, các khớp chân tay rã rời, hoa mắt, chóng mặt, húng háng ho luôn...Uống ăn kém sút...Nhân có ông bạn của bố là bác sĩ, Ông bố liền đưa tới khám bệnh. Bác sĩ đoán là bệnh phổi, vừa dùng thuốc tiêm, thuốc uống tới ngót 1 năm, bệnh tình lại càng ngày càng nặng. Sau đó một người bạn thân của Loan trước đã có uống thuốc của tôi được khỏi bệnh mách, ông bố mời tôi đến chẩn trị. Khi tôi tới thăm, thấy Loan thân thể gầy còm, sắc mặt xanh nhợt, tinh thần hoảng hốt, tiếng nói nhỏ yếu, rêu lưỡi trơn trắng, cả 6 bộ mạch đều Tế Nhược và Sác...Tôi hỏi đến kinh nguyệt thì Loan thẹn ngoảnh mặt đi không dám nói. Tôi liền ra ngoài thấy có một bà già đi lại săn sóc, nghe nói là bà thím, tôi liền bảo bà ấy hỏi hộ, và dặn phải hỏi rất cặn kẽ, tỉ mỉ...kết quả được bà già nói lại tình hình khi mới hành kinh như tôi vừa thuật ở trên, và lại nói thêm đã hơn 14 tháng rồi cháu không hành kinh nữa. Sau khi nghe bà già nói, tôi liền kết hợp với Vọng, Văn, Thiết vừa rồi, đoán là “hàn tà lọt vào huyết thất”. vì hán tà làm ứ trệ ở Huyết hải, khiến cho hai mạch Xung, Nhâm mất sự giao lưu nên mới thành ra kinh bế; vì kinh bế nên mới ảnh hưởng đến Tỳ Vị mà phát sinh các chứng hậu như trên; chứ không phải là bệnh ở Phổi. Nhân đó, tôi vạch ra phương pháp lấy "Ôn kinh, kiện Tỳ", "hành khí bổ huyết" làm chủ. Vì ông bố nghe nói tôi nghiên cứu về khoa Châm cứu đã lâu năm nên yêu cầu tôi dùng châm. Tôi liền châm các huyệt: Phế du, Tỳ du, Thận du, Quan nguyên, Huyết hải, Tam âm giao. Lưu kim 20 phút. Sau khi rút châm tiếp tục cứu luôn lên trên các huyệt đó. Ngày hôm sau tới thăm, tinh thần coi có vẻ khá hơn hôm trước, ho cũng đỡ. Liền châm và cứu thêm các huyệt Cao hoang, Nội quan, Chí thất, Mệnh môn, Bào hoang, Trung Cực, Tam âm giao v.v...Ngày thứ 3 tôi tới thăm, lại thấy tiến bộ hơn trước, coi mặt Loan đã có vẻ hớn hở. Từ hôm đó trở đi, lại bổ sung thêm mấy huyệt Hoang du, Trung chử, Qui lai, Khí hải, Can du, Đới mạch v.v...cùng với các huyệt trên thay đổi mà châm cứu. Tới ngày thứ 9, bệnh tình đã giảm được 60% đến 70%. Tôi liền bảo ông bố cho uống thêm mấy thang Qui tỳ, uống xen kẽ với Bát chân thang gia giảm cho chóng bình phục. Ông bố đồng ý. Từ hôm đó trở đi lại cứ vừa châm cứu vừa uống thuốc tới 16 ngày, các chứng hậu hoàn toàn khỏi hẳn, ăn ngon, ngủ được, tinh thần sảng khoái. Ông bố định cho ăn uống bổ dưỡng hai tuần nữa, sẽ tiếp tục cho đi học. (Uống hết 2 thang Qui tỳ và 2 thang Bát chân gia giảm). 

2. Hoàng Hữu Hưng, 30 tuổi, giáo viên trường Phổ thông cấp 2 bị bệnh di tinh đã lâu năm, có khi mộng mới di, có khi mới chợt nghĩ đến đàn bà cũng di. Uống và tiêm hết rất nhiều thuốc Đông, Tây đều không khỏi. Khi đến yêu cầu tôi chữa, tôi chẩn thấy Thốn quan Huyền Hoạt, Xích bộ Trầm Tế, sắc lưỡi đỏ bóng không rêu... Tôi đoán đó là hiện tượng của bệnh "Thoát dịch”, vì thường cứ cách một ngày hoặc hai ngày lại di một lần, do đó tinh thần kém sút, thân thể gầy còm, trí nhớ giảm, chân đi chóng mỏi, eo lưng đau rức, đầu choáng mắt hoa... Nội kinh nói: "Tâm là quân Hỏa, thận là tướng Hỏa, vì lo nghĩ quá độ, hoặc tình dục không ngừng, khiến cho quân hỏa bốc ở trên, tướng hỏa nung ở dưới, thủy với hỏa không tương tế lẫn nhau, do đó mà dễ bài tiết. Vì tinh dễ bài tiết, nên Thận tạng hư tổn, chân nguyên không bền cứ vào khoảng 3, 4 giờ sáng, khi sinh dương bắt đầu phát triển, tức thì dồn tinh tràn ra... vì vậy nên phần nhiều di vào lúc gà gáy. Tinh đã bài tiết ra mất quá nhiều, nên mới gây nên các hiện tượng như vừa nói ở trên. Tôi liền châm các huyệt Tâm du, Trung cực, Hoàn khiêu, và cứu các huyệt Khí hải, Thận du, Tinh cung. Các huyệt tôi sử dụng trên, chủ yếu là: bổ thận, Nhiếp tinh, Ninh Tâm, ích khí v.v...LÚC đầu còn tưởng hãy châm cứu một liệu trình 5 ngày rồi bảo họ kết hợp với uống thuốc, dùng những bài như Kim tỏa cố tinh, 

Kim thủy nhị tiên và Thiên vương bổ Tâm v.v... Không ngờ mới điều trị được hết một liệu trình, bệnh tình đã giảm được tới 60-70%, nên thôi không bảo họ uống thuốc nữa, tiếp tục lại châm và cứu thêm 3 liệu trình nữa, bệnh tình hoàn toàn khỏi hẳn. 

Nguồn trích: CHƯƠNG VI: KINH LẠC VÀ CHÂM CỨU - TỬ SIÊU Y THOẠI KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ VÀ HỌC TẬP LÀM THUỐC, NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ NỘI – 1990